Theo lời nhắc nhở của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông Thư Desiderio Desiravi, Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam mong muốn trình bày một số lưu ý trích nguồn từ các Quy chế, Quy tắc và Luật chữ đỏ của Sách lễ Rôma để giúp Dân Chúa chuẩn bị tham dự các cử hành phụng vụ Tuần Thánh năm nay.
Việc tuyên xưng đức tin của Công đồng Nicêa, cũng giống như tất cả các lời tuyên xưng đức tin quan trọng trong Giáo hội sơ khai, trong cấu trúc cơ bản của nó là một lời tuyên xưng về Thiên Chúa Ba Ngôi. Nội dung thiết yếu của nó là một lời “xin vâng” với Thiên Chúa hằng sống là Chúa, Đấng là khởi điểm và cùng đích của cuộc sống chúng ta. Đó là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa
Mục tiêu trước tiên xem ra khá đơn giản, đó là việc canh tân phụng vụ vốn đã bắt đầu với Đức Piô XII, khi ngài cải tổ việc cử hành Tuần Thánh; mục tiêu thứ hai là Giáo Hội học, và thứ ba là Lời Chúa, Mạc Khải; và cuối cùng, việc đại kết. Người Pháp còn quan tâm hơn người Đức nhiều tới việc giải quyết vấn đề về các quan hệ giữa Giáo Hội và thế giới.
Tin mừng theo Thánh Matthêu viết: “Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: ‘Êli, Êli, lema sabachthani’, nghĩa là ‘Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?’ (Mt 27,45-47).
“Người Tôi Tớ của YHWH” (YHWH: Giavê, Danh xưng của Thiên Chúa) là một cá nhân cụ thể, hay là một sự nhân cách hóa cho cả một tập thể? Nếu là một tập thể thì đó là tập thể nào? Đó là toàn thể dân Israel, hay chỉ là “số sót của những người công chính”, những người đảm nhận vai trò đặc biệt để cứu lấy dân tộc mình? Nếu là một cá nhân, thì đó là nhân vật của quá khứ, hiện tại, hay tương lai? Nếu là nhân vật của tương lai, thì đó là một nhân vật mà ngôn sứ Isaia tiên báo, hay chỉ là một hình ảnh lý tưởng theo kiểu hoàn toàn mang tính biểu tượng?[3]
Tôi nhớ Kinh Tin mà chúng tôi đọc thuộc lòng trong lớp Giáo lý, được bắt đầu bằng việc tuyên xưng đức tin vào Đức Chúa Trời có Ba Ngôi, mà Ngôi Thứ Hai đã xuống thế làm Người, rồi kết thúc bằng câu này:
- Bốn mươi ngày Chay thánh trong việc cầu nguyện và ăn chay mang đến một tiến trình chữa lành và giải thoát. Vào mùa Chay, chúng ta đặt bản thân gần hơn với Người tôi trung đau khổ là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta suy tư về sự thống khổ của Đấng cứu thế. Chúng ta nhớ lại rằng cuộc khổ nạn của Đức Kitô đã thánh hoá tất cả đau khổ của con người. Chúng ta có liên quan tới nỗi đau của Người vì tất cả chúng ta bị ảnh hưởng bởi sức nặng chung của tội lỗi và sự dữ trong thế gian. Nó tấn công chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu được mời gọi đẩy lùi những cơn sóng của tội lỗi và sự dữ.
Ngày hôm nay chúng ta có thể đón nhận Công đồng Vaticanô II với một lòng biết ơn: nếu chúng ta biết giải thích và thực hiện Công đồng này bằng một lối chú giải đúng đắn, thì nó có thể, và còn có thể ngày càng trở nên mạnh mẽ đối với việc canh tân Giáo hội, đó là một điều luôn luôn cần thiết.
Có một hiện tượng rất thú vị: quan sát một người chuyển từ trạng thái căng thẳng bên trong được thể hiện qua sự căng thẳng bên ngoài, rồi sang trạng thái bình an và thanh thản! Chúng ta có thể liên kết hiện tượng này với trường hợp của một hối nhân đứng xếp hàng, chờ đợi đến phiên mình lãnh nhận Bí tích Giải tội, ít nhiều gì, họ dễ bộc lộ chút nào đó của sự bồn chồn, căng thẳng. Tuy nhiên, sau khi xưng tội và lãnh nhận ơn tha tội, chúng ta rất dễ nhận ra sự bình an nội tâm tỏa ra ngay từ chính nét mặt của người đó khi rời tòa giải tội.
Mùa Chay là khoảng thời gian đặc biệt (gồm 40 ngày chay thánh), Giáo hội muốn con cái mình chuẩn bị tâm hồn để cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua (Cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô - Mầu nhiệm trọng tâm của đời sống đức tin Kitô hữu) được sốt sắng hơn.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói với George Weigel, tác giả cuốn sách Witness to Hope, rằng vấn đề đối với nhiều người viết tiểu sử trước đây là họ cố gắng “hiểu tôi từ bên ngoài. Nhưng tôi chỉ có thể được hiểu từ bên trong.”
Lý thuyết về luật tự nhiên hướng dẫn đời sống luân lý cũng như những quyết định luân lý, đã xuất hiện khá lâu rồi trong tiến trình tư tưởng Tây phương. Kể từ khi người Hy Lạp đầu tiên suy tư về triết học. Trong tác phẩm của Aristote, Rhetoric and Ethics, (Tu Từ Học và Đạo đức học), ta thấy có mô tả về thứ luật phổ quát này đang áp đặt cho con người.
Trong kỷ nguyên hiện đại này, chúng ta đang bị bao vây và đôi khi bị tra tấn bởi các thiết bị điện tử - máy tính, điện thoại thông minh, Ipad, máy tính bảng - và các mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram, TikTok... Thế nhưng, trong mọi hoàn cảnh, Giáo hội Công giáo và các vị Giáo hoàng trong 50 năm trở lại đây (hoặc có thể lâu hơn) đã luôn nhấn mạnh: phải khai thác triệt để những cơ hội này để phục vụ Thiên Chúa và Giáo hội.