“Còn con, con bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu cũng hỏi từng người chúng ta như vậy, nhiều lần trong đời. Tôi phải trả lời, vì tôi không nên đi theo Đấng mà tôi không biết là ai. Tôi nghe câu hỏi trên ở mọi chặng đường của cuộc sống, và có thể đưa ra những câu trả lời khác nhau, dựa trên kinh nghiệm, bởi lẽ Đức Giêsu là một Mầu nhiệm không ngừng mở ra cho tôi.
Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này. Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại. Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11). Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại. Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu, người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc. Người thì đang quăng lưới ngoài khơi, kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22). Khi Thầy gọi Matthêô, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế. Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình, dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu. Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh. Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Anh em là những người họ hàng gần gũi, tuy không phải là anh em ruột. Mẹ và anh em của Đức Giêsu là những người đang đứng ngoài nhà. Ngài không hề khinh họ, nhưng Ngài tập trung vào người trong nhà. Những người ở trong nhà là những người đang ngồi nghe lời Đức Giêsu. Họ được mời gọi không nghe suông, nhưng đem ra thực hành, để trở thành mẹ và anh em của Ngài
Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào thái độ tích cực, dấn thân. Thái độ của Kitô hữu là đứng hẳn về phía ánh sáng. Nhiệm vụ của chúng ta là thắp sáng, chiếu sáng và đem ra ánh sáng, để những ngọn đèn nhỏ của ta dẫn nhân loại đến với Ánh Sáng Giêsu.
Người quản gia khôn vì ông dám đối diện với thực tế, đó là chuyện ông bị chủ cho thôi việc. Ông khôn vì ông biết giới hạn của mình: Không đủ sức cuốc đất, không đủ mặt dầy mặt dạn để đi ăn xin. Ông khôn vì ông biết xoay sở, tìm ra phương án tốt nhất, biết tận dụng quyền hành còn lại của mình để đem đến cho tương lai bấp bênh một bảo đảm.
Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một. Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15), nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình. Nhưng có Lời bị đánh cắp. Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12).
Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc, để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1). Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái. Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ.
Lễ Đức Mẹ sầu bi nhắc cho ta thấy đời Mẹ cũng có khi buồn. Vui buồn ở đời là chuyện mấy ai tránh khỏi. Cần ngắm nhìn khuôn mặt lo lắng của Mẹ khi mất Con hay đem con đi trốn. Cần chứng kiến khuôn mặt đớn đau của Mẹ khi đứng bên Con trên núi Sọ. Chính khuôn mặt buồn khổ của Mẹ lại làm chúng ta thấy gần Mẹ hơn. Khi chia sẻ mọi đau khổ của kiếp người long đong, Mẹ cảm thông với cái nặng nề của phận người mà ta gánh chịu.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập. Chúng ta suy tôn chính Ðấng đi đóng đinh vào thánh giá. Ngài là Ðấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu:
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt. Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13). Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác. Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33), Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34). Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15). Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì. Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý. Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa, căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6). Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông, nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6). Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi. Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài. Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy. Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.