Chú giải Lời Chúa Lễ Hiển Linh

Thứ sáu - 05/01/2024 17:01      Số lượt xem: 2125

Phụng vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội là Bí tích hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Thế của mình.

Is 60: 1-6
Ngôn sứ I-sai-a loan báo vinh quang của thành thánh Giê-ru-sa-lem mới, tiên báo Giáo Hội: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (60: 3).
Ep 3: 2-6
Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ. Đó là muôn dân nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một Giáo Hội duy nhất, trở nên một Thân Thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 2: 1-12
Được soi lối chỉ đường: từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên báo Giáo Hội, đến thờ lạy Đấng Cứu Thế.
Le Hien Linh 3
BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)
Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố sứ mạng phổ quát của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Họ mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en vượt qua chủ nghĩa dân tộc và nhấn mạnh ơn gọi của dân Ít-ra-en phải là ánh sáng cho muôn dân.
Bản văn được chọn để cử hành lễ Hiển Linh được trích từ tác phẩm của một trong các ngôn sứ này. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
1. Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (60: 1-2):
Ông loan báo một sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi dân Ít-ra-en đang ngã lòng thất vọng. Trước đây, cuộc hồi hương trở về đã đem lại cho những người lưu đày một niềm phấn chấn vô bờ; nhưng khi đụng chạm đến thực tế, họ mới vỡ mộng. Thành thánh Giê-ru-sa-lem đổ nát, dân cư thưa thớt, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt trên bốn mươi năm. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nỗ lực tái thiết Đền Thánh phải dừng lại dang dở. Chính vào lúc ấy, một sứ điệp vang lên để an ủi những ai mất can đảm: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” (60: 1).
Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho họ được trở về quê cha đất tổ. Những kẻ áp bức đã bị trừng phạt. Cuộc hồi hương này được ví như buổi bình minh, còn Thiên Chúa thì được sánh ví như vầng kim ô chói lọi: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (60: 2).
Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vì thế, vị ngôn sứ trình bày hai thị kiến chứa chan hy vọng: cuộc tụ họp vĩ đại tại Thành Đô và nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô.
2. Cuộc tụ họp vĩ đại tại Thành Đô Giê-ru-sa-lem (60: 3-4):
Trong thị kiến chứa chan hy vọng thứ nhất, vị ngôn sứ báo trước cuộc tụ hợp vĩ đại của muôn dân nước và con cái Ít-ra-en đang tản mác khắp nơi: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (60: 3).
Chư dân đến từ phương xa này là muôn dân nước, họ sẽ chọn Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình, vì uy danh Thiên Chúa của thành đã quyến rũ họ. “Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (60: 4).
Những con trai con gái này là những “cộng đồng Do Thái hải ngoại”, họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam. Thế nên, một truyền thống rất sinh động muốn rằng toàn thể dân Ít-ra-en lại được thống nhất, đó phải là công trình của Đấng Cứu Thế. Như vậy, sấm ngôn hàm chứa hậu cảnh thời Mê-si-a.
3. Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (60: 5-6):
Trong thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất, vị ngôn sứ báo trước việc chư dân sẽ tiến dâng nguồn phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh: “Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha; tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (60: 6)
Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sơ-va là những dân Ả-rập. Tên Sơ-va gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sơ-va đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng cho vua nhiều quà tặng quý giá (x. 1V 10: 1-13). Thành Đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn sống trong cảnh lầm than, nhưng trong cảnh thái bình thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại bừng lên ánh sáng huy hoàng từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân lũ lượt kéo nhau đến để tán dương chúc tụng Thiên Chúa. Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tinh, tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân nước được đồng thừa tự với dân Do Thái, dân của Lời Hứa (Bài đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc tụ họp chung quanh Thiên Chúa chân thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gio-an trong sách Khải Huyền: thành thánh Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc, được phác thảo trên trần thế này là Giáo Hội.
 
BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3, 5-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này có lẽ trong cảnh bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được gởi đến các tín hữu Ê-phê-xô, và qua cộng đoàn Ê-phê-xô này, được chuyền đến các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á. Quả vậy, trong bức thư này, không có bất kỳ lời chào thăm hỏi nào của thánh nhân dành cho các tín hữu Ê-phê-xô. Ấy vậy, thánh Phao-lô đã trải qua ba năm trong thành này và đã để lại ở đây các môn đệ và những bạn hữu. Vì không có lời chào thăm hỏi đặc thù này, khiến người ta suy ra rằng thánh Phao-lô muốn bức thư này phải được phổ biến rộng rãi.
Những cộng đoàn miền Tiểu Á đa số là những Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc họ nhớ ơn gọi tông đồ dân ngoại của ngài. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ biết rằng không còn một dân tộc được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa, vì muôn dân đều được hưởng cùng một ơn cứu độ như con cái Ít-ra-en.
1. Mầu nhiệm Đức Ki-tô: 
Sứ điệp chính yếu của bức thư này là “mầu nhiệm Đức Ki-tô”. Qua từ “mầu nhiệm” này, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.
Theo thánh Phao-lô, dù có nghiên cứu Kinh Thánh một cách thành tâm thiện chí mấy đi nữa cũng không thể nào biết được ý định ẩn kín từ muôn thuở này, đó là vào kỷ nguyên Mê-si-a, dân Ít-ra-en không còn được hưởng những đặc quyền nữa, nhưng được trao ban cho hết muôn dân: muôn dân trở nên đồng thừa tự Lời Hứa. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu này chỉ nhờ ánh sáng của Đức Giê-su soi lòng mở trí cho thánh nhân trên đường Đa-mát.
2. Dân thánh:
Từ trong cảnh giam cầm ở Rô-ma, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các vị Tông Đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua kiểu nói: “dân thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki-tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
3. Vị Tông Đồ của dân ngoại:
Thánh nhân đã dâng hiến mọi sức lực của mình cho ơn gọi Tông Đồ của dân ngoại này. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã đồng lao cộng khổ thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt núi băng đèo, không quản ngại gian nguy. Chương 13 của sách Công Vụ tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a, người Do Thái sinh lòng ghen tức… trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa. Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong chuyện tích “Các nhà chiêm tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.
 
TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)
Thánh Mát-thêu là tác giả Tin Mừng duy nhất tường thuật chuyện tích “Các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Thánh nhân đã giữ lại chuyện tích này vì nó minh chứng một trong những chủ đề sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và Giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho lương dân dự phần vào Giao Ước, vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến họ. Thật lạ lùng trong khi lương dân đáp trả lời mời gọi dự phần vào Giao Ước, thì con cái của Lời Hứa quay lưng lại với Giao Ước.
Thánh Lu-ca tường thuật các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó, trong khi thánh Mát-thêu tường thuật các nhà chiêm tinh từ đường xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người thông thái, thượng lưu giàu có. Các mục đồng là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi các nhà chiêm tinh đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.
1. Lên đường theo ánh sáng tự nhiên:
Trong chuyện tích “Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Hài Nhi Giê-su” theo Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho ngôi sao lạ thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh này. Thánh vịnh đã nói với chúng ta:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh.
Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19: 2-5).
Nếu chỉ cần suy nghĩ cách sâu xa biết bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy người ta lên đường đến với Thiên Chúa.
2. Lai lịch của những nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông:
Những nhà thông thái và giàu có này là ai mà thánh Mát-thêu gọi họ là “các nhà chiêm tinh”? Theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ, từ “nhà chiêm tinh” chỉ các tư tế và các vị cố vấn của các vua Ba-tư. Về sau, tên gọi này được gán cho những người miệt mài nghiên cứu những vận hành của các tinh tú trên trời để dự đoán những biến cố xảy ra trên trần thế. Thánh Mát-thêu xem ra hiểu theo ý nghĩa này. Qua những nhà thông thái đến từ Phương Đông, thánh Mát-thêu muốn nói rằng họ đến từ thế giới lương dân. Đó là điều cốt yếu. Chắc chắn họ không phải là các vua.
Làm thế nào các nhà chiêm tinh này biết được số tử vi của “vua dân Do Thái” mà nhận ra ngôi sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện? Nhiều người giải thích rằng văn chương Do Thái về Đấng Mê-si-a đã được phổ biến một cách rộng rãi qua các cộng đồng Do Thái hải ngoại.
3. Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem.
Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì chính “vua dân Do Thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu chủ ý dùng tước hiệu này vì đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người này là Giê-su, vua dân Do Thái” (Mt 27: 37).
Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem khiến vua Hê-rô-đê và triều thần bối rối. Điều này xem ra cũng dễ hiểu vì vua cùng triều thần nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Đúng ra dân thành Giê-ru-sa-lem vui mừng mới phải, vì Đấng Mê-si-a mà họ biết bao mong đợi nay được loan báo? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân thành này đã lỗi hẹn gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Qua việc cả dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao, thánh ký báo trước dân này sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do Thái chống đối cộng đoàn Ki tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng này có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét này: “Cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao”.
“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do Thái giáo, còn các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh; vì thế, họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ này đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do Thái vừa mới sinh này xem ra là hình ảnh tham dự trước cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.
Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi đôi chút cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Ngôn sứ Mi-kha viết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en …” (Mk 5: 1), trong khi bản văn trích dẫn của Mát-thêu: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời. Rõ ràng trong bản văn của mình, thánh Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng sửa đổi và thêm vào bản văn của 2Sm 5: 2: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…”.
“Bấy giờ Vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện” để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua đã hoạch định mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa, nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.
Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật này rất gần với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa này: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo đến điên cuồng sát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông đã ra lệnh hành hình nhiều người biệt phái trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua này, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù vô nhân tính đi nữa.
Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash” ? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình… Toàn dân kinh hãi… một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua… một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”. Đây là lời giải thích Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu được gợi hứng từ phương thức này? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.
4. Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa:
Chắc chắn chúng ta cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm Midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ này. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng này rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao soi lối chỉ đường cho các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?
5. Gặp gỡ Hài Nhi:
Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…”. Tác giả liên kết cách chặt chẽ niềm vui của những lương dân với việc họ vào “nhà”, đây là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Ki-tô và thờ lạy Ngài. Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đến triều bái chính Đấng mà thánh Gio-an tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước đã tiên báo và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.
Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều này thật lạ lùng, vì cho đến lúc này thánh Mát-thêu rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài” ?
Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các lễ vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường này là một vị vua vừa mới chào đời. Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật này: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi này là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi này là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những dược liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi này sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa này, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là Vua, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Các nhà chiêm tinh từ phương trời xa đến triều bái lạy Hài Nhi, như thế các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su này (x. Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).
6. Theo lối khác mà về xứ mình:
Câu chuyện kết thúc với việc nhắc lại “vua Hê-rô-đê” một lần nữa, vị vua tìm cách sát hại vua dân Do Thái vừa mới sinh ra: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa” (2: 12). Vua Hê-rô-đê đã tìm cách liên kết các nhà chiêm tinh này vào mưu đồ thâm độc của ông, kế hoạch này hiểm ác như thế nào thì cuộc thảm sát các hài nhi Bê-lem sẽ cho biết. Nhờ Thiên Chúa can thiệp, họ “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Chuyện các nhà chiêm tinh liên quan đến những biến cố ở Bê-lem kết thúc với hành vi vâng phục và cộng tác của họ vào kế hoạch của Thiên Chúa. Người Ki-tô hữu cũng phải nhanh chóng tiếp thu đặc ân và sứ mạng Thiên Chúa trao ban cho họ. Họ phải kiên vững trong sứ mạng này thậm chí nếu sứ mạng này buộc phải thay đổi những kế hoạch mà mình đã dự định.
Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của chuyện tích này, nhưng không ai có thể chối cãi đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.

 

Tác giả bài viết: Lm. Inhaxiô Hồ Thông


 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

  Ẩn/Hiện ý kiến

Những tin mới hơn

 

Những tin cũ hơn

DC VC NVB Tach nen
BÀI VIẾT ĐƯỢC QUAN TÂM
THÁNH CA
HỌC HỎI LỜI CHÚA
  •   Đang truy cập 267
  •   Máy chủ tìm kiếm 3
  •   Khách viếng thăm 264
 
  •   Hôm nay 1,056
  •   Tháng hiện tại 1,245,065
  •   Tổng lượt truy cập 81,177,965