1/ Kinh Thương Xót
Từ “Kyrie eleison” (“Xin Chúa thương xót”) trong nguyên ngữ Hy lạp không có nghĩa là đấm ngực ăn năn vì “chúng ta là tội nhân trong bàn tay giận dữ của Thiên Chúa”.[19] Đúng hơn, nó có nghĩa là một sự chúc tụng tung hô (confessio laudis) Thiên Chúa là Đấng hằng thương xót và chúng ta trông cậy vào Ngài; cũng có nghĩa là tuyên xưng tình thương trung thành không hề đổi thay của Ngài.[20] Rõ ràng, Kyrie được mô tả như một lời tung hô và nó không phải là hành động thống hối (actus penitentialis) hay là thành phần của hành động thống hối mà chỉ là được ghép/đặt trong bối cảnh thống hối (x. QCSL 46, 52, 125, 258; LNGM 255); chỉ một lần duy nhất Kyrie là thành phần của nghi thức thống hối khi vị tư tế chọn cử hành theo công thức/mẫu sám hối thứ III.[21] Sự độc lập của Kyrie eleison hay sự tách rời Kyrie eleison ra khỏi công thức thống hối (x. NTTL 7) cho thấy cách tỏ tường rằng: (1) Kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” là lời chuyển cầu lên Đức Kitô là trung gian;[22] (2)Kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” là một bài tung hô Chúa phục sinh mà sự hiện diện của Ngài làm chúng ta phải nhảy mừng lên trước lòng từ bi hải hà từ nơi Ngài chảy tràn trên chúng ta.[23] Nên biết rằng, theo mô tả của thánh Gregory thành Tours (năm 590), Kyrie vốn là lời tung hô phổ biến thời ngài, được hát đang khi đi rước.[24] Bởi vậy, không nên hát Kyrie theo kiểu ảm đạm thê lương, ngay cả trong Thánh lễ an táng (x. PV 81). Điều này có nghĩa là, trong Thánh lễ an táng, không nhất nhất cứ phải hát Bộ lễ mồ, chúng ta có thể và rất nên hát Bộ lễ khác như Sêraphim hoặc Ca Lên Đi 2 (hợp âm D).[25]
Kinh “Xin Chúa thương xót chúng con” là lời tung hô dâng lên Chúa Kitô, quy về Chúa Kitô chứ không phải quy về Thiên Chúa Ba Ngôi vì cả 3 câu trong mẫu thống hối III đều hướng tới Chúa Kitô và được gọi là công thức ca ngợi phẩm tính Chúa Kitô.[26]
2/ Kinh Vinh Danh
Không hát kinh Vinh danh vào các Chúa nhật Mùa Vọng và Mùa Chay (vì sử dụng lễ phục tím), nhưng đối với lễ trọng và lễ kính rơi vào trong các mùa này, thì vẫn hát kinh Vinh danh như thường lệ [vì không sử dụng lễ phục tím] (x. QCSL 53, 126, 258; MVTN 137).
Không được thay thế bản văn của thánh thi Gloria bằng bản văn nào khác (QCSL 53; MVTN 137) trừ trường hợp trong Thánh lễ dành cho trẻ em cùng với phép của Bản Quyền chuẩn nhận (x. TE 31).
3/ Kinh Tin Kính
Kinh Tin kính phải do linh mục hát hoặc đọc chung với cộng đoàn vào các ngày Chúa nhật và lễ trọng; cũng có thể đọc trong những cử hành đặc biệt khá long trọng (x. QCSL 68, 137; NTTL 18; Notitiae 7 [1971] 112, n. 2).
Nếu hát kinh Tin kính, thì linh mục, hoặc tùy nghi một ca viên hay ca đoàn xướng lên, rồi tất cả mọi người cùng hát, hoặc cộng đoàn hát luân phiên với ca đoàn. Nếu không hát, thì mọi người cùng đọc hoặc chia làm hai bè đối đáp (x. QCSL 68; MVTN 159).
Giữa đọc và hát, thông thường nên chọn đọc thì tốt hơn vì nguồn gốc và bản chất của kinh Tin kính chỉ ra rằng kinh này phù hợp một cách tự nhiên với việc đọc hơn là hát (x. CHTL 170).[27] Điều này có nghĩa là chỉ nên hát trong trường hợp/hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như trong Thánh lễ có đông đảo người tham dự hoặc trong dịp cử hành long trọng mà chúng ta muốn nhấn mạnh/tập trung hơn vào việc tuyên xưng đức tin.[28]
4/ Sanctus (Thánh!Thánh!Thánh!)
Chúng ta nên hát Sanctus trong mọi Thánh lễ vì: (1)Thứ nhất, tự bản chất, đây là bài ca tung hô và chúc tụng Chúa Kitô; (2)Thứ hai, trong việc tung hô chúc tụng này, cộng đoàn dưới thế hợp với lời ca tiếng hát của các thiên thần trên trời như vẫn được nhắc đến trong hầu hết các kinh Tiền tụng; (3) Thứ ba, theo dòng lịch sử, Sanctus luôn luôn được hát. Thật vậy, vào ngày lễ Lều, dân Do Thái làm thành đoàn rước lá, họ vừa đi vừa hát hosanna. Đối với phụng vụ Do Thái, từ khoảng năm 200, Sanctus được hát trong giờ phụng vụ ban sáng (Kedusha) tại hội đường. Còn trong phụng vụ Công giáo, ngay từ ban đầu, Sanctus được toàn thể cộng đoàn hát. Nếu dành riêng cho ca đoàn thể hiện như xảy ra vào đầu thời kỳ Trung cổ, thì ca đoàn cũng hát chứ không đọc (x. MVTN 169).[29]
Trong thực hành, sau những lời cuối cùng của kinh Tiền tụng, nhạc công chỉ nên bắt nốt nhạc bài Sanctus thật ngắn và thật nhỏ để làm cho lời tung hô này bùng lên lập tức và đúng lúc.[30]
5/ Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha chính là lời kinh chuẩn bị rước lễ cao nhất. Bởi vì, (1)thứ nhất,trong kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa ban bánh ăn hằng ngày cũng là ám chỉ xin bánh Thánh Thể (QCSL 81);[31] (2) thứ hai, kinh Lạy Cha mời gọi chúng ta một lần nữa dọn lòng đón Chúa đến bằng cách xin Chúa thanh tẩy tâm hồn mình cho khỏi tội lỗi (QCSL 81) với điều kiện là chúng ta phải tỏ lòng xót thương đối với người khác trước đã qua sự tha thứ cho họ (Mt 6,14-15; 18,21-35; 5,23-24).[32]
Vì kinh Lạy Cha là kinh chuẩn bị rước lễ cao nhất, do đó, nên hát kinh Lạy Cha vào dịp lễ long trọng và không cần đọc bất cứ một lời kinh đạo đức bình dân nào khác nữa để chuẩn bị rước lễ.[33]
Trong khi hát/đọc kinh Lạy Cha, thông thường chỉ các vị tư tế mới dang tay hướng lên trời trong tư thế “orans” (x. NTTL 124; QCSL 152; LNGM 159).[34] Tại Việt Nam, trừ các tư tế, các tín hữu khác chưa được phép dang tay như tư tế đang khi đọc kinh này ngoại trừ tư thế duy nhất được đề nghị cho họ là tư thế đứng (x. QCSL 43, 160).
Chủ tế không nên kêu gọi cộng đoàn nắm lấy tay nhau và các tín hữu cũng không tự tiện nắm lấy tay nhau đang khi đọc/hát kinh Lạy Cha vì: (1) đây là một cử chỉ được đem vào phụng vụ một cách tự nhiên theo sáng kiến cá nhân chứ không phải theo hướng dẫn của chữ đỏ; (2)việc nắm tay vào lúc này, theo quan điểm biểu tượng, sẽ như là đi trước và sao chép y như dấu hiệu trao chúc bình an. Hậu nhiên, sẽ làm suy yếu hoặc rút mất giá trị của dấu hiệu trao chúc bình an sẽ diễn ra sau đó (x. NTTL 128; QCSL 82, 154; Notitiae 11 [1975] 226).[35]
6/ Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa
Ðang khi vị tư tế bẻ bánh và bỏ một phần vào chén thánh thì ca đoàn hay ca viên hát đối đáp/đọc lớn tiếng kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa” (x. NTTL 129-130; QCSL 83).
Kinh này nên được hát vào Chúa nhật/lễ trọng và có thể được lặp đi lặp lại [theo kiểu Kinh Cầu]: “Lạy Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian” – “Xin thương xót chúng con” bao lâu còn cần để kèm theo việc bẻ bánh. Lần cuối cùng được kết thúc bằng câu: “Xin ban bình an cho chúng con” (x. NTTL 129-130; QCSL 83; Notitiae 14 [1978] 306, n. 8).[36]
Trích: "Thánh lễ và Thánh nhạc: Phần thường lễ & phần riêng của Thánh lễ"_Tác giả: Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
Nguồn: hdgmvietnam
[26] X. Paul Turner, The Supper of the Lamb, 18.
[27] X. Charles E. Miller, The Celebration of the Eucharist (New York: Alba House, 2010), 128.
[28] X. Deiss, Visions of Liturgy and Music for a New Century, 224-225.
[29] Phạm Đình Ái, SSS, “Những phần nên hát trong mọi Thánh lễ,” trong Nhìn lại một số Vấn đề Phụng vụ tại Việt Nam, 255-273.
[30] X. David Haas, Music and the Mass (Chicago: Liturgy Training Publications, 1998), 78.
[31] X. Augustinô, “Bài đọc Kinh Sách thứ Ba Tuần XXIX – Mùa Thường Niên”; Jeremy Driscoll, What Happens at Mass (Chicago: Liturgy Training Publications, 2005), 118; Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 256-258; Josef A. Jungmann, SJ, The Mass: An Historical, Theological, and Pastorical Survey, trans. Julian Fernandes, SJ (Collegeville: The Liturgical Press, 1976), 205.
[32] X. Le Gall, La Messe au fil de ses rites ((Chambray: C.L.D, 1992),194.
[33] Phạm Đình Ái, Để Nhớ đến Thầy (Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 2018), 361-62; X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, no. 81.
[34] Đây là cử điệu của người đang cầu nguyện/van nài được thực hiện trong tư thế đứng, khuỷu tay sát vào hai bên thân thể và hai tay dang ra, còn lòng bàn tay thì ngửa hướng lên trên như chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước (2 Mcb 14,34;15,12.21; G 11,13-15; Tv 68,32…): x. Charles Herbermann, ed., “Orans”, Catholic Encyclopedia (New York: Robert Appleton Company, 1913).
[35] X. McNamara, “Holding Hands at the Our Father” (18 Nov. 2003), https://www.ewtn.com/catholicism/library/holding-hands-at-the-our-father-4289.
[36] Musicam sacram (5 March 1967), 34, AAS 59 (1967), 310.