TRUYỀN GIÁO – SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

Khi nói đến hai từ “truyền giáo”, chắc hẳn chúng ta, những người Kitô hữu ai cũng hiểu được ít nhiều về khái niệm này. Có người xem truyền giáo chính là mang Lời Chúa đến cho người ngoại để họ biết Thiên Chúa là ai. Có người nghĩ rằng truyền giáo là thuyết phục người ta làm thế nào để sớm được rửa tội và gia nhập vào cộng đoàn Công giáo qua việc đi nhà thờ, tham dự thánh lễ…, trong khi người khác lại cho rằng truyền giáo chính là hướng dẫn người ta nhận ra con đường tìm về hạnh phúc Thiên đàng nhằm đạt được nguồn ơn cứu độ.

Chúng ta thấy, ngoài ra còn có biết bao sứ điệp và những hướng dẫn chung của Giáo Hội hằng năm về công cuộc loan báo Tin Mừng cho mọi thành phần dân Chúa. Chung quy lại, truyền giáo chính là ra đi làm cho muôn dân tin nhận Chúa, trở thành môn đệ của Đức Giêsu Kitô và bước vào gia đình Giáo Hội, để được hạnh phúc đời này và đời sau.

Truyền giáo – sứ mệnh của người Kitô hữu

Giáo Hội là truyền giáo. Điều đó không chỉ là lệnh truyền mà còn nằm trong căn tính của Giáo Hội, trong ơn gọi của mỗi người Kitô hữu – những người được xức dầu Thánh Thần, được tham dự vào chức năng ngôn sứ của Đức Kitô để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9).

Vì thế, việc truyền giáo làm nên căn tính của người Kitô hữu; đó là một bổn phận và là hướng đích của mọi Kitô hữu. Thánh Phaolô quả quyết: “Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Theo cái nhìn của vị Tông Đồ dân ngoại, khi không sống căn tính – nghĩa là không truyền giáo – chúng ta trở nên một con người “khốn nạn”: khốn nạn vì mình không là mình; khốn nạn vì tôi thuộc về ngôi nhà Giáo Hội của Chúa, được Mẹ Giáo Hội nuôi dưỡng qua ân sủng các bí tích, nhưng lại trở nên kẻ vô tích sự trong việc thực thi sứ mệnh của mình.

Không có lòng thao thức và sự nhiệt huyết trong việc loan báo Tin Mừng, tôi trở thành kẻ khốn nạn. Dù là làm thợ thì đáng được trả công, nhưng người môn đệ trung tín của Đấng chịu đóng đinh không thể là kẻ say mê thế tục, tìm sự dễ dãi; mà cần ý thức mình là người được Chúa sai đi – sai đi để trở thành những “thợ gặt” lành nghề trong cánh đồng truyền giáo, chứ không phải để tìm lợi lộc, vinh thân; đi để “phục vụ”, chứ không phải để “được phục vụ”. Do đó, người Kitô hữu phải luôn ý thức được căn tính của mình, nghĩa là luôn mang trong lòng niềm thao thức cho việc truyền giáo; phải băng mình để làm nô lệ cho Tin Mừng, hầu có thể thu phục được mọi người và giúp họ đón nhận ánh sáng cứu độ. Nếu không, tôi cũng chỉ là người “hữu danh vô thực”, mang danh Kitô hữu mà không sống đúng với chính danh ấy.

Động lực và phương cách truyền giáo

Trong đời sống hằng ngày, người ta luôn chọn cho mình một nghề hoặc một công việc để kiếm sống và có nguồn lợi nhuận giúp đảm bảo cuộc sống ổn định. Truyền giáo không phải là một nghề nhằm tìm kiếm danh lợi, mà là phục vụ ơn cứu độ con người. Vì thế, người truyền giáo phải là tôi tớ của Tin Mừng, bởi “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14). Chính tình yêu và lòng thương xót đã thúc đẩy người truyền giáo lên đường, bỏ lại tất cả, vượt qua mọi trở ngại, để cho Tin Mừng được loan báo, để nhiều người đón nhận tin vui cứu độ.

Để việc truyền giáo được hữu hiệu, thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại mời gọi các nhà truyền giáo phải “trở nên mọi sự cho mọi người, để mọi người được cứu độ; làm mọi việc vì Tin Mừng, để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (1 Cr 9,23). “Trở nên mọi sự cho mọi người” nghĩa là sống tự hủy, là ra khỏi chính mình để đến với con người, đặc biệt là những người ở vùng ngoại vi của xã hội, biết khơi lên niềm hy vọng cho những con người khốn cùng. “Ra khỏi chính mình” còn là hành vi nhập thể vào môi trường sống, để biến mình trở nên mọi sự cho mọi người – như Chúa Giêsu xưa đã trút bỏ vinh quang để nhập thể làm người, mang thân phận con người, hầu cảm nhận tận sâu thẳm sự khốn cùng của kiếp người, và qua đó, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kéo con người ra khỏi vũng lầy tội lỗi để hướng về Thiên Chúa.

Vì vậy, người truyền giáo phải biết trở nên mọi sự cho mọi người, biết chấp nhận và đặt giá trị Tin Mừng lên trên tất cả; đồng thời, biết nhập thể trong các nền văn hóa khác nhau, bước ra khỏi chính mình, khỏi ý hướng cá nhân, khỏi sự tiện nghi của cuộc sống để đến những vùng đất chưa được khai hóa, những ngõ hẻm của cuộc đời chưa biết đến Lời Chúa, nhằm gieo trồng hạt giống Tin Mừng.

Chúa Thánh Thần – Đấng hướng dẫn và ban sức mạnh

Nhà truyền giáo sẽ chẳng làm được gì nếu không có đời sống cầu nguyện và sự tác động, hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định rõ ràng: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của tất cả sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội.” Nếu không có Chúa Thánh Thần, truyền giáo trở thành tuyên truyền – giống như một tổ chức xã hội phổ biến một hệ tư tưởng hay một chính sách nào đó. Nhưng khi có Chúa Thánh Thần, truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới.

Không có Chúa Thánh Thần, ước muốn truyền giáo sẽ trở nên trống rỗng. Chính Người là nguyên lý và ngọn lửa bùng lên trong lòng người truyền giáo – như khi xưa, trong ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã không còn sợ hãi, mà hăng hái lên đường làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Người truyền giáo cần biết mở lòng mình ra để cho Chúa Thánh Thần tác động mà không sợ hãi. Như thánh Phaolô đã nói về chính mình: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1 Cr 2,4–5)

Như vậy, chúng ta phải không ngừng kín múc sức mạnh của Chúa Thánh Thần để làm việc với lòng nhiệt thành, quyết tâm và kiên nhẫn trong cánh đồng truyền giáo rộng lớn trên toàn cầu.

Trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ước mong mọi Kitô hữu đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, với tư cách là những môn đệ truyền giáo của Chúa Kitô, làm cho niềm hy vọng của Người tỏa sáng đến tận cùng trái đất!” Đó cũng chính là lời mời gọi và sứ mạng cho mỗi người chúng ta hôm nay. Amen.

Lm Gioakim Nguyễn Xuân Văn