Hãy tưởng tượng một phụ huynh quyết định trao chìa khóa chiếc Ferrari cho con mình. Ngoài nguy cơ hư hại xe, khó có thể hình dung một người trưởng thành tỉnh táo lại nghĩ đến hành động thiếu trách nhiệm như vậy. Thế nhưng, mối nguy hiểm khi đưa điện thoại thông minh cho trẻ nhỏ cũng nghiêm trọng không kém, dù ít rõ ràng hơn.

Những người thiết kế và sản xuất chúng hiểu rất rõ điều này: các nhà sáng lập mạng xã hội, iPhone, điện thoại thông minh cùng lãnh đạo nền tảng Silicon Valley (eBay, Google, Apple, Yahoo, Facebook, Hewlett-Packard…) đều đặt ra giới hạn rõ ràng cho việc con cái họ sử dụng thiết bị số, dù điều này có thể khiến cuộc sống phức tạp hơn hoặc làm chúng mất lòng bạn bè. Lựa chọn của họ gửi đi thông điệp chung: mạng xã hội không dành cho trẻ em.

Jaron Lanier – người đã thiết kế các startup mà sau này được Google, Adobe và Oracle mua lại – đã tiếp nối tư tưởng tiên phong của Nicholas Carr, đưa ra mười lý do từ bỏ mạng xã hội (khác với Internet và điện thoại thông minh nói chung) vì chúng thao túng sự chú ý, thao túng hành vi và đầu độc người dùng, ngăn cản họ sống an yên và trọn vẹn hơn.[1]

Steve Jobs đã cấm các con gái dùng iPhone và iPad; người kế nhiệm ông tại Apple là Tim Cook cũng áp dụng điều tương tự với các cháu nội. Bill Gates ngoài việc quy định độ tuổi tối thiểu (14 tuổi) cho con cái sử dụng thiết bị, còn yêu cầu chúng chỉ dùng điện thoại (không phải mạng xã hội) tối đa 30 phút/ngày. Chris Anderson – cựu tổng biên tập Wired, nay là CEO 3D Robotics – đặt giới hạn là 16 tuổi dù bị chính các con của mình gọi là “phát xít”. Sundar Pichai (CEO Alphabet và Google) cũng làm vậy. Satya Nadella (CEO Microsoft) giám sát chặt thiết bị điện tử của con; Susan Wojcicki (cựu CEO YouTube) chỉ cho phép con mình dùng khi chúng đã đủ độc lập trong đời sống xã hội. Evan Williams – đồng sáng lập Twitter, Blogger và Medium – chọn tặng sách thay vì điện thoại cho con mình.

Hầu hết họ chỉ cho phép con cái dùng máy tính cho mục đích học tập: không màn hình trong phòng ngủ, tắt mọi thiết bị khi ăn tối để khuyến khích trò chuyện. Trường học của con họ không dùng thiết bị số mà vẫn dùng giấy, bút, bảng đen và phấn. Ở Mỹ, sinh viên ngày càng ưa chuộng các sách giấy vì sự hỗ trợ học tập chất lượng của chúng.[2]

Sự đồng thuận trong lựa chọn sử dụng thiết bị điện tử lành mạnh của những nhân vật này gây ra một sự chú ý rất lớn. Những người tạo ra mạng Internet hiểu rõ cạm bẫy của nó, đặc biệt với người dùng trẻ. Nghiên cứu về chủ đề này đã chứng minh rằng họ đúng.

Sự nguy hiểm tiềm ẩn của mạng xã hội đối với sức khỏe tinh thần được phơi bày rõ trong phim tài liệu “The Social Dilemma” công chiếu tại Liên hoan phim Sundance ngày 26/1/2020. Giá trị của bộ phim nằm ở chính các cuộc phỏng vấn với những người từng làm việc tại Silicon Valley như Frederik Bolayons, Mia Kalifa, Alfred Nzani, Snoop Dog, Shoshana Zuboff, Travis Scott, Jaron Lanier, Anna Lembke và Sophia Hammons. Dù các nền tảng có sự đa dạng khác nhau, một mối lo chung nổi lên: sự trỗi dậy của tầng lớp “quý tộc” vô hình có khả năng định hướng dư luận tinh vi, nhưng lại thiếu vắng những quy định pháp lý từ cơ quan chức năng.[3]

Những người đã nghiên cứu sâu rộng vấn đề này đã chỉ ra một khía cạnh đáng lo ngại khác đang ngày càng phổ biến ở những người rất trẻ: mối liên hệ giữa mạng xã hội và sự mong manh về mặt tinh thần. Nhà tâm lý học Jonathan Haidt đã đặt tên cho bài nghiên cứu của mình là “thế hệ lo lắng”. Bài viết đó đã giúp ông giành được Giải thưởng Goodreads Choice năm 2024 ở hạng mục Phi hư cấu. Thế hệ lo lắng theo ông ám chỉ đến “Thế hệ gen Z”, tức là những người sinh từ năm 1995 đến năm 2005, những người đã tiếp cận được với phương tiện truyền thông xã hội từ khi còn nhỏ.

Những điều mà vài năm trước có vẻ như chỉ là quan điểm báo động thường nhật của những người bi quan tận thế (những người coi thường sự mới mẻ) dành cho những người theo hướng “hòa nhập” (theo cách nói của Umberto Eco), thì nay đã trở thành một sự thật đáng buồn: chính việc sử dụng mạng xã hội dẫn đã dẫn đến tình trạng sức khỏe tâm thần suy giảm, nhất là ở trẻ em và thanh thiếu niên.

Những hệ lụy nghiêm trọng

Người ta đã nhiều lần lưu ý mức độ lan truyền của Internet đối với nội dung khiêu dâm trực tuyến và những hậu quả tiêu cực của chúng đối với các khái niệm về tình dục và tình trạng của người phụ nữ.[4] Nghiên cứu của Haidt tập trung vào một hiện tượng có vẻ vô hại hơn liên quan đến các mạng xã hội. Các nền tảng này, dù đa dạng nhưng chúng có chung một số đặc điểm quan trọng. Đầu tiên là khả năng tạo hồ sơ cá nhân (chèn văn bản, hình ảnh, nhạc, phim) có thể được người khác truy cập và chỉnh sửa tùy ý. Việc trao đổi và tương tác với những người dùng khác, không nhất thiết phải do tác giả của hồ sơ lựa chọn, và xu hướng đăng bình luận, xếp hạng và phản ứng có thể chiếm một lượng thời gian quá mức và diễn ra theo cách rất mơ hồ (danh tính giả, xu hướng lừa dối, cũng như tự lừa dối).

Haidt đã chỉ ra bốn hình thức gây hại nghiêm trọng gắn liền với tình trạng này:

1) Thiếu hụt trong giao tiếp xã hội. Sự phát triển lành mạnh của trẻ em đòi hỏi chúng phải chơi ngoài trời với bạn bè cùng trang lứa. Dữ liệu về các hoạt động giải trí bên ngoài gia đình cho thấy sự suy giảm đột ngột sau năm 2013 (không có sự khác biệt đáng kể so với thời gian phong tỏa vì Covid-19). Đồng thời, những khó khăn về tương quan và trưởng thành tâm lý cũng biểu hiện rõ ràng đến mức gợi lên một mối liên hệ rõ ràng giữa khủng hoảng tinh thần và việc sử dụng mạng xã hội:


“Những đứa trẻ iGen [= thế hệ phát triển cùng với iphone] lớn chậm hơn so với những thế hệ trước: những đứa trẻ 18 tuổi ngày nay cư xử giống như những đứa trẻ 15 tuổi ngày xưa, những đứa trẻ 13 tuổi giống như những đứa trẻ 10 tuổi. Về mặt thể chất, thanh thiếu niên hiện nay khỏe mạnh hơn bao giờ hết, nhưng về mặt tinh thần, chúng dễ bị tổn thương hơn rất nhiều.”[5]


Ngay cả khi các bạn trẻ rời khỏi nhà, sự chú ý và khả năng tương tác của chúng liên tục bị phá vỡ bởi các thông báo hoặc nội dung mà chúng vẫn xem khiến các em không thể chuyển sang một trạng thái tương tác thực sự. Theo đó, chúng bị cô lập ngay cả khi chúng đang ở bên nhau. Một bạn sinh viên người Canada chia sẻ rằng: “Chúng tôi có những tình bạn hời hợt, và những mối tương quan vô nghĩa. Tôi thường đến lớp sớm và thấy mình trong một căn phòng với hơn ba mươi đang im lặng tuyệt đối, đắm chìm vào chiếc điện thoại của họ […]. Điều này dẫn đến sự cô lập khủng khiếp và làm giảm bản sắc và lòng tự trọng của một người. Tôi biết điều này, vì tôi đã trực tiếp trải nghiệm nó.”[6]


2) Thiếu ngủ. Trái ngược với những gì Jean Twenge lưu ý, sử dụng mạng xã hội quá mức có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe thể chất. Độ sáng của màn hình, vốn đã được cải tiến ở các mẫu mới nhất, có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về tâm trạng và thị lực, đặc biệt là nếu một người sử dụng điện thoại vào ban đêm. Trên thực tế, điều này làm thay đổi nhịp sinh học (ánh sáng từ màn hình gửi thông điệp đến não rằng bạn đang trong giai đoạn thức), khiến bạn khó ngủ và khó tập trung hơn (gây ảnh hưởng đến kết quả học tập) và thúc đẩy nhanh bệnh đục thủy tinh thể và bệnh thoái hóa điểm vàng ở mắt. Đối với trẻ em, nguy cơ này đặc biệt nghiêm trọng vì mắt của chúng hấp thụ nhiều ánh sáng hơn mắt của người trưởng thành. Thiếu ngủ ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và dẫn đến những hậu quả tâm lý nghiêm trọng, chẳng hạn như thiếu chú ý và tập trung, lòng tự trọng thấp, lo lắng, cáu kỉnh, trầm cảm và có xu hướng tự sát. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng khi mọi người cố gắng tắt tất cả các thiết bị điện tử sau 9 giờ tối, giấc ngủ sẽ được cải thiện và đạt được hiệu suất trí tuệ tốt hơn. Đây là phát hiện của một loạt 36 nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng mạng xã hội và bệnh tâm thần.[7]

3) Sự phân mảnh của khả năng tập trung. Thói quen đa nhiệm (làm nhiều việc cùng một lúc) khiến khả năng tập trung của một người trở nên mong manh và không liên tục, đặc biệt là khi người đó phải thực hiện những công việc đòi hỏi nhiều công sức và không mang lại kết quả tức thời. Giống như việc khả năng chú ý của một người đang bị chia thành nhiều mảng nhỏ khiến người đó có cảm giác liên tục như thể mình đang ở một nơi khác. Điều này dễ hiểu khi, ví dụ bạn đang nói chuyện điện thoại với một người đang làm những việc khác. Việc cố gắng làm nhiều việc cùng một lúc không khiến bạn hiệu quả hơn mà ngược lại còn khiến bạn làm nhiều việc tệ hơn.

Những người đa nhiệm kỳ lạ thay lại gặp nhiều khó khăn hơn khi chuyển đổi giữa các hoạt động, trong khi đây lẽ ra phải là chuyên môn của họ, mà họ cũng không phát triển thêm được các kỹ năng khác, đặc biệt là khả năng ghi nhớ, đòi hỏi sự tập trung, dành thời gian và không bị sao nhãng. “Trẻ em dành hơn hai giờ mỗi ngày nhìn vào màn hình có điểm thấp hơn trong các bài kiểm tra trí tuệ cảm xúc và trí tuệ. Điều đáng lo ngại nhất là trong nhiều nghiên cứu khác nhau, người ta phát hiện ra rằng não của trẻ em dành nhiều thời gian trên màn hình khác với trẻ em cùng thời. Thậm chí, một số trẻ có hiện tượng vỏ não bị mỏng sớm. Một nghiên cứu khác phát hiện ra mối liên hệ giữa thời gian ngồi trước màn hình và chứng trầm cảm.”[8] Do đó, tình trạng rối loạn thiếu chú ý (ADHD) gia tăng một cách đáng lo ngại, đã trở thành một “đại dịch” trong suốt thập kỷ qua.[9]

Tuy nhiên, xu hướng đa nhiệm dường như ngày càng phổ biến ở mọi lứa tuổi, gây ra hậu quả nghiêm trọng trong giáo dục và trong công việc. Trong một bức thư ngỏ gửi Apple vào ngày 6 tháng 1 năm 2018, JANA Partners LLC (một công ty chuyên đầu tư sự kiện) và Hệ thống hưu trí giáo viên tiểu bang California (cơ quan chính phủ cung cấp hỗ trợ hưu trí cho giáo viên California – hai đơn vị nắm giữ khoảng 2 tỷ đô la cổ phiếu Apple – đã báo cáo dữ liệu từ một cuộc khảo sát của Trung tâm truyền thông và sức khỏe trẻ em và Đại học Alberta trên 2.300 giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông. Họ đặc biệt lưu ý rằng, trong vòng 3-5 năm sử dụng công nghệ kỹ thuật số trong lớp học, hầu hết giáo viên (67%) lo ngại về việc học sinh (75%) ngày càng không có khả năng thực hiện thành thạo nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, 90% giáo viên nhận thấy sự gia tăng đáng lo ngại (86%) trong các vấn đề quản lý cảm xúc của học sinh do nhiều dịch vụ mà mạng xã hội cung cấp. Bức thư cũng đề cập đến bài luận của Twenge về tình trạng trầm cảm và nguy cơ tự tử gia tăng (35%) ở những người dành trung bình ba giờ mỗi ngày trên các thiết bị điện tử so với những người dành một giờ cho chúng. Khi mức trung bình là năm giờ, tỷ lệ phần trăm tăng lên 71%. Điều này làm trầm trọng thêm các hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, chẳng hạn như mất ngủ, béo phì, vẹo cột sống và tiểu đường.[10]

4) Nghiện. Bắt đầu từ năm 2009, Facebook đã giới thiệu khả năng đăng bình luận và “thích”, và chúng nhanh chóng được các mạng xã hội khác bắt chước. Sự đổi mới này dựa trên nghiên cứu của René Girard về xu hướng bắt chước hiện diện ở con người, thường biểu hiện theo hình tam giác: chủ thể mong muốn, đối tượng được mong muốn, và người trung gian. Đây là mô hình mà chủ thể nhìn thấy đối tượng như trong một tấm gương, từ đó khơi dậy mong muốn bắt chước hoặc phản đối. Theo Girard, hành động của con người hầu như luôn bắt nguồn từ ham muốn bắt chước, một ham muốn do người khác tạo ra. Điều này đã được chứng minh bằng sự ra đời của chức năng “thích (likes)” trên mạng xã hội, đã thúc đẩy cái gọi là “hiệu ứng bầy đàn”: xu hướng đăng bình luận, tích cực hoặc tiêu cực, vì những người khác đã làm như vậy. Theo nghĩa này, Girard được gọi là “cha đỡ đầu của lượt likes”. Các lý thuyết của ông đã được một trong những học trò của ông, Peter Thiel, tiếp thu và áp dụng vào thế giới xã hội, người đã dự đoán rằng các nền tảng như Facebook sẽ nhanh chóng trở nên rất thành công vì mong muốn bắt chước để xem một cái gì đó chỉ vì người khác cũng đã xem.[11]

Nhưng cơ chế bắt chước cũng tạo ra sự hung hăng và ghen tị đối với người khác, làm tăng hậu quả phá hoại, dễ xảy ra hơn do tính ẩn danh, vô hình và thiếu các rào cản ức chế đặc trưng của mạng xã hội, vốn khác hẳn với các mối quan hệ trực tiếp, là điển hình của cuộc sống thực.

Mức độ về ước ao bắt chước có thể dẫn đến hậu quả phá hoại được chứng minh bằng chuỗi vụ tự tử liên quan đến trang Ask.fm – viết tắt của Ask for me, được tạo ra tại Litva vào năm 2010, mô phỏng theo trang Formspring của Hoa Kỳ – dựa trên sự liên kết tự do giữa các câu hỏi và câu trả lời được diễn đạt hoàn toàn ẩn danh.[12]

Ask.fm chỉ là một ví dụ, một trong hàng ngàn trang web tràn lan trên mạng và được trẻ em và thanh thiếu niên truy cập quá dễ dàng mà không hề được hỗ trợ và không được bảo vệ khi bước vào một thế giới quá lớn và phức tạp để chúng có thể quản lý một cách có trách nhiệm, bởi đây là nhóm tuổi có xu hướng hành động trước khi suy nghĩ, bị thúc đẩy bởi cảm xúc hoặc áp lực tức thời của thời điểm đó. Ở độ tuổi phát triển, con người bị thúc đẩy bởi cảm xúc mạnh mẽ hơn nhiều so với người lớn, và điều này, khi không có đủ giới hạn và khả năng tự kiểm soát – vốn là chức năng của vỏ não trước trán trưởng thành – khiến các em rất dễ bị tổn thương trước hàng loạt tin nhắn và bình luận xuất hiện trên màn hình điện thoại di động.

Cuộc sống dành trọn cho màn hình

Hiện nay, hầu hết các ứng dụng đều chèn các mánh lới quảng cáo đủ loại để thu hút sự chú ý và tò mò của người dùng, nhằm kéo dài thời gian duyệt web càng nhiều càng tốt và kiếm tiền từ việc xử lý dữ liệu và quảng cáo. Thật dễ hình dung ra tác động mà điều này có thể gây ra cho những người có ít ý chí hơn, chẳng hạn như trẻ em (rất nhiều em đã sử dụng điện thoại từ khi mới 5-6 tuổi). Những đứa trẻ này không ít lần phàn nàn về việc khó rời mắt khỏi màn hình, vì chúng được khuyến khích dành ngày càng nhiều thời gian cho màn hình, như thể màn hình là một loại nam châm thu hút chúng.

Một đứa trẻ từ 8 đến 12 tuổi dành khoảng 4-6 giờ mỗi ngày cho màn hình (điện thoại, máy tính bảng, máy chơi game, TV và máy tính); một thanh thiếu niên (13-18 tuổi) dành tới 9 giờ, nhiều hơn thời gian làm việc toàn thời gian trong một ngày. Ngoài ra, cần lưu ý rằng tỉ lệ sử dụng lại cao hơn ở nhóm dân số thu nhập thấp, tương tự như nghiện ăn uống. Hiệu ứng giống như việc lái xe trên đường cao tốc đầy những lối rẽ hấp dẫn, với đủ loại lời mời chào kích thích sự tò mò và mong muốn không bỏ lỡ “cơ hội”. [13]

Nir Eyal, người đã làm việc nhiều năm trong lĩnh vực quảng cáo và thiết kế trò chơi điện tử, đã gọi kỹ thuật này là “hiệu ứng móc câu” để thu hút khách hàng, một loạt các sự xao nhãng có thể ít nhiều có giá trị: đó có thể là thông báo, tin tức, bình luận về những gì đã đăng, tất cả đều là “mồi câu” đặc biệt hấp dẫn đối với trẻ em. Do đó, phần lớn thời gian thức (và thời gian ngủ) được dành cho việc duyệt web. Mặc dù không phải ai cũng rơi vào tình trạng nghiện hoàn toàn, nhưng đây là một hình thức thao túng nghiêm trọng ý chí và sự đồng thuận của trẻ em. [14]

Công tố viên Frances Haugen, người làm việc tại Phòng Chính trực cộng đồng của Facebook, đã công bố hàng nghìn tài liệu vào năm 2021, cho thấy Facebook sử dụng các kỹ thuật “mồi nhử” để dụ trẻ em và thanh thiếu niên chọn Instagram (được Facebook mua lại vào năm 2012 với giá 1 tỷ đô la). Ngoài ra, sau cuộc điều tra của Tạp chí Phố Wall, Facebook đã quyết định đình chỉ một dự án có tên “Instagram Kids”, nhắm vào trẻ em từ 4 đến 12 tuổi.[15]

Nghiện điện thoại thông minh không kém phần tàn khốc so với các loại nghiện khác; trên thực tế, nó cũng biểu hiện các triệu chứng đặc trưng của cơn nghiện (lo lắng, cáu kỉnh, mất ngủ, buồn bã). Anna Lembke, một nhà nghiên cứu tại Đại học Stanford, lưu ý trong nghiên cứu của mình về các chứng nghiện mới ở thanh thiếu niên rằng


“Smartphone là kim tiêm thời hiện đại, cung cấp dopamine kỹ thuật số 24/7 cho thế hệ có kết nối”.[16]


Vậy liệu chúng ta có phải đang đối mặt với làn sóng tội phạm mới hay không? Những người sản xuất và buôn bán ma túy sẽ bị truy tố và bỏ tù; Mặt khác, những người sáng tạo mạng xã hội, mặc dù đã cố tình tạo ra các ứng dụng gây nghiện với mục đích duy nhất là kiếm lợi nhuận, vẫn tiếp tục hoạt động của họ mà không bị quấy rầy, không có cơ quan công quyền nào thực hiện bất kỳ biện pháp kiểm soát hiệu quả nào đối với họ. Chỉ khi một số tin tức được công khai, chúng ta mới quyết định can thiệp, như đã xảy ra vào năm 2018 liên quan đến vụ bê bối Cambridge Analytica.

Vấn đề này vừa mang tính chính trị vừa mang tính giáo dục. Thật không may, thường thì sự vắng mặt chính trong kịch bản này lại là chính quyền. Điều này đã được thấy trong cuộc điều tra Cambridge Analytica. Khía cạnh nghiêm trọng nhất của vụ việc đó không phải là Facebook cho phép dữ liệu của người dùng bị khai thác để tác động đến các cuộc bầu cử, mà là các cơ quan chính trị hoàn toàn mơ hồ về cách các công ty truyền thông và mạng xã hội thường hoạt động.

Bệnh tâm thần ở thế hệ ‘iGen’

Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là ngăn chặn sự gia tăng tình trạng căng thẳng tâm lý trong thế hệ trẻ. Một thực tế đã được xác lập tại Hoa Kỳ là tỷ lệ bệnh tâm thần trong “Thế hệ gen Z” đã tăng đột biến và đáng lo ngại kể từ năm 2010. Từ năm 2012 đến năm 2021, tỷ lệ thanh thiếu niên (12-17 tuổi) được điều trị chứng lo âu và trầm cảm đã tăng 161% ở nam và 145% ở nữ, so với những gì đã được ghi nhận cho đến năm 2010; tỷ lệ tự làm hại bản thân (rạch tay, cố gắng tự tử) đã tăng 200%. Những xu hướng rất tương tự cũng được thấy ở các quốc gia khác trên thế giới. Điều kỳ lạ là sự gia tăng này không ảnh hưởng đến các thế hệ trước.[17]

Người ta thường tin rằng việc sử dụng mạng xã hội có lợi cho việc tham gia vào các mối tương quan ở xa, nhưng những lợi ích này chỉ được tìm thấy ở những người cũng có giao tiếp với nhau trong đời sống thực (offline). Hơn nữa, các nghiên cứu không tìm thấy bất kỳ lợi ích nào về sức khỏe tinh thần cho những người dùng mạng xã hội khi còn rất trẻ. Điều này đã rõ ràng kể từ năm 2012, khi Instagram, Snapchat và Tik Tok bắt đầu lan rộng.

Hậu quả của sự hướng nội và thu mình khỏi tương tác xã hội rất nghiêm trọng, không chỉ ở khía cạnh tâm thần: trẻ em ngày càng khó khăn hơn trong việc bước vào giai đoạn trưởng thành, làm nổi bật các đặc điểm của “người cát” vốn là khái niệm được nhà xã hội học Catherine Ternynck ghi nhận, với những hậu quả rõ ràng đối với khả năng hình thành các mối quan hệ ổn định, đưa ra những lựa chọn chắc chắn trong cuộc sống và trở nên có trách nhiệm với cuộc sống của người khác.[18] Đây là một vấn đề đáng lo ngại có thể gây tổn hại đến tương lai của toàn bộ các thế hệ và chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ nữa.

Những biện pháp khắc phục khả thi

Kết luận từ các nghiên cứu chủ yếu đến từ bên ngoài nước Ý,[19] nhưng chính vì lý do này, chúng có thể hữu ích trong việc chỉ ra xu hướng và phạm vi can thiệp có thể có trước khi ngày càng nhiều thanh thiếu niên phải dùng đến phương pháp điều trị tâm thần trên quy mô lớn. Một lần nữa, đây không phải là vấn đề thử nghiệm một phát minh, mà là vượt ra ngoài những quan điểm hời hợt và định kiến: “Theo định nghĩa, công nghệ là sản phẩm của con người và giống như mọi sản phẩm của con người, nó có thể thảo luận và nên được thảo luận.”[20] Nhận ra tính nghiêm trọng và phức tạp của vấn đề, cùng với nhu cầu suy nghĩ về các biện pháp can thiệp sớm để giảm thiểu thiệt hại hiện tại và ngăn ngừa thiệt hại trong tương lai là điều kiện tiên quyết để xác định các khả năng can thiệp.

Trước hết, cần cân nhắc xem ở độ tuổi nào thì phù hợp để cho trẻ sử dụng điện thoại thông minh. Tất nhiên, về phía cha mẹ, điều này liên quan đến việc phải đối mặt với những khó khăn mệt mỏi trước những đòi hỏi dai dẳng của con cái (ngày càng nhỏ tuổi) và những lý do thường thấy mà chúng đưa ra (“Mọi người đều có, chỉ mình con không có, con sẽ bị loại trừ, trêu chọc…”). Nhưng trong những trường hợp này, Internet có thể là một trợ giúp quan trọng, kết nối các bậc cha mẹ cùng chung một mục đích giáo dục là bảo vệ sức khỏe tâm thần của con cái, và cũng nhận được sự giúp đỡ từ những người đã giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả.[21]

Thông điệp đến từ những người làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật số, như chúng ta đã thấy, là nhất trí: cần phải bảo vệ trẻ em, vì vậy, điều cần thiết là phải thiết lập giới hạn độ tuổi tối thiểu và giới hạn thời gian hàng ngày để truy cập vào phương tiện truyền thông xã hội (tức là có khả năng ký hợp đồng để mở tài khoản và đăng video, hình ảnh hoặc bản ghi trực tuyến) để bảo vệ sức khỏe tinh thần của người dùng. Mặc dù khó có thể thiết lập giới hạn độ tuổi bình đẳng cho mọi người, nhưng có vẻ như độ tuổi dễ bị tổn hại nhất có thể lên tới 11-13 tuổi đối với nữ và 14-15 tuổi đối với nam.[22] Dựa trên những chỉ dẫn này, vào năm 2024, chính quyền Úc đã cấm trẻ em dưới 16 tuổi sử dụng mạng xã hội, một quyết định đáng ngạc nhiên khi nhận được phản hồi tích cực ngay cả ở Ý người trẻ: 29% trong nhóm tuổi 10-15 và 49% trong nhóm tuổi 19-24.[23] Đây là một dấu hiệu cho thấy bản thân chính những người trẻ cũng cảm thấy khó chịu với mạng xã hội như thế nào.

Một nguồn trợ giúp khác đến từ các trường học. Ngay từ năm 2023, UNESCO đã kêu gọi cấm sử dụng điện thoại thông minh trong các cơ sở giáo dục để chống lại sự mất tập trung và bắt nạt trên mạng. Cảnh báo này đã được một số trường học coi trọng, những trường này đã cấm sử dụng điện thoại trong giờ học (ví dụ: cất điện thoại trong hộp hoặc tủ khóa), đồng thời tổ chức các khóa học cụ thể nhằm sử dụng mạng xã hội đúng cách, và nêu bật những rủi ro đối với sức khỏe tâm thần. Cũng giống như đối với nội dung khiêu dâm, thảo luận là một công cụ giáo dục quan trọng để thúc đẩy tư duy phản biện.

Điều quan trọng không kém là tăng cường các hoạt động ngoài trời, chẳng hạn như các cuộc thi thể thao, nhưng đặc biệt là vui chơi tự do và tham gia các hiệp hội tự nguyện. Như đã lưu ý, trầm cảm là một căn bệnh đặc trưng của nền văn minh. Tham gia các môn thể thao ngoài trời, chăm sóc các mối tương quan thể chất, tránh trầm ngâm, ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi đêm và chế độ ăn giàu axit omega-3 đều giúp ích đáng kể trong việc giải quyết hoặc ngăn ngừa tình trạng lo âu.[24] Thời gian không dùng mạng xã hội có thể được sử dụng theo cách lành mạnh hơn, tăng thời gian dành cho giải trí và nuôi dưỡng các mối tương quan đời thực với bạn bè. Điều này giúp chống lại sự cô lập và chủ nghĩa cá nhân, vốn là mầm mống cho các rối loạn tinh thần. Người ta đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc các nghi lễ trưởng thành vì chúng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp trẻ em và thanh thiếu niên đối mặt với những thách thức của thực tế một cách có trách nhiệm, tin tưởng vào khả năng của bản thân.[25] 

Trong tất cả những điều này, chắc chắn không thể thiếu sự tham gia của chính trị. Việc thực hiện các biện pháp can thiệp để bảo vệ quyền riêng tư của công dân và chống lại các nhóm vận động hành lang xã hội và những người quan tâm đến việc tài trợ cho họ bằng cách gây tổn hại đến sức khỏe của người tiêu dùng là điều bắt buộc. Ví dụ: hành động của nước Úc như đã đề cập ở trên. Vương quốc Anh cũng đã và đang tiến theo hướng này trong một thời gian. Sau khi “Bộ luật thiết kế phù hợp với lứa tuổi” được thông qua vào năm 2020,[26] một số nền tảng kỹ thuật số, chẳng hạn như Tik Tok, để tránh bị đóng cửa, đã buộc phải áp dụng các bộ lọc quyền riêng tư phù hợp để trẻ vị thành niên không bị những người lạ liên hệ. Đến lượt mình, Facebook đã phải thay đổi chính sách quảng cáo dành cho trẻ vị thành niên và nền tảng Instagram vào năm 2023 đã đưa ra tùy chọn ẩn số lượt thích đối với nội dung do người dùng đăng để tránh hậu quả về mặt cảm xúc của “hiệu ứng bầy đàn”.

Thời kỳ phong tỏa vừa qua đã xác nhận rằng cuộc sống trực tuyến không thể được coi là sự thay thế cho cuộc sống thực. Đã đến lúc phải nghiêm túc lưu ý và đảo ngược xu hướng này.


Nguồn: dongten

Tác giả: Giovanni Cucci, SJ & Betty Varghese

Chuyển ngữ: Giuse Đỗ Đại Nghĩa, S.J.


[1]Cf. J. Lanier, Dieci ragioni per cancellare subito i tuoi account social, Milan, il Saggiatore, 2018; N. Carr, Internet ci rende stupidi? Come la rete sta cambiando il nostro cervello, Milan, Raffaello Cortina, 2010.

[2]. Cf. N. Bilton, “Steve Jobs Was a Low-Tech Parent”, in New York Times, September 10, 2014; M. Richtel, “A Silicon Valley School That Doesn’t Compute”, in New York Times, October 22, 2011; P. Benanti, Il crollo di Babele. Che fare dopo la fine del sogno di Internet?, Cinisello Balsamo (Mi), San Paolo, 2024, 132 f; G. Cucci, Internet e cultura. Nuove opportunità e nuove insidie, Milan, Àncora – La Civiltà Cattolica, 2016, 99 f.

[3]. Là một trong những người được phỏng vấn, Tristan Harris, cựu giám đốc đạo đức tại Google và đồng sáng lập Trung tâm Công nghệ Nhân văn, lưu ý: “Chưa bao giờ trong lịch sử, quyết định của một nhóm nhỏ các nhà thiết kế, chủ yếu là nam, người da trắng, cư dân San Francisco, độ tuổi 25–35, làm việc tại 3 công ty Google, Apple và Facebook, lại có tác động lớn đến cách hàng triệu người trên thế giới sử dụng sự chú ý của họ đến vậy” (trích từ B. Bosker, “The Binge Breaker,” in The Atlantic, November 2016). Cf. S. Zuboff, Il capitalismo della sorveglianza. Il futuro dell’umanità nell’era dei nuovi poteri, Rome, Luiss, 2023.

[4]. Cf. G. Cucci, Relazioni. Tra Covid e digitale, Milan, Àncora, 2023, 137-179.

[5]. J. M. Twenge, Iperconnessi. Perché i ragazzi oggi crescono meno ribelli, più tolleranti, meno felici e del tutto impreparati a diventare adulti, Turin, Einaudi, 2018, 6. Cf. V. Kannan – P. Veazie, “US trends in social isolation, social engagement, and companionship – nationally and by age, sex, race/ethnicity, family income, and work hours, 2003-2020”, in SSM Population Health 21 (2023) 101331.

[6]. Quoted in J. Haidt, La generazione ansiosa. Come i social hanno rovinato i nostri figli, Milan, Rizzoli, 2024, 150.

[7]. Cf. S. Garbarino et Al., “Role of sleep deprivation in immune-related disease risk and outcomes”, in Communications Biology 18 (2021) 1304; R. Alonzo et Al., “Interplay between social media use, sleep quality, and mental health in youth: A systematic review”, in Sleep Medicine Reviews, April 2021.

[8]. A. Carciofi, Vivere il metaverso. Vita, lavoro e relazioni: come trovare benessere ed equilibrio nel futuro di Internet, Macerata, Roi, 2022, 152.

[9]. Cf. J. Hari, L’attenzione rubata. Perché facciamo fatica a concentrarci, Milan, La nave di Teseo, 2023, 357-396.

[10]. Cf. J. Twenge, Iperconnessi…op. cit., 132-169; A. Sheeman (ed), “Letter from JANA Partners & CalSTRS to Apple Inc.”, in California State Teachers’ Retirement System (https://thinkdifferentlyaboutkids.com/index.php?acc=1), January 19, 2018.

[11]. Cf. P. Benanti, Il crollo di Babele…, op. cit., 165-170; R. Girard, Menzogna romantica e verità romanzesca. Le mediazioni del desiderio nella letteratura e nella vita, Milan, Bompiani, 2009; P. Thiel – B. Masters, Da zero a uno. I segreti delle startup, ovvero come si costruisce il futuro, Milan, Rizzoli, 2015.

[12]. Cf. G. Cucci, Internet e cultura…op. cit., 88-91.

[13]. Cf. “Screen Time and Children”, in www.aacap.org/AACAP/Families_and_Youth/Facts_for_Families/FFF-Guide/Children-And-Watching-TV-054/; “The Common Sense Census: Media Use by Kids Age Zero to Eight”, in www.commonsensemedia.org/sites/default/files/research/report/2020_zero_to_eight_census_final_web.pdf; “Screen time report 2022”, in www.uswitch.com/mobiles/screentime-report/. Cf. J. Haidt, La generazione ansiosa…op. cit., 145 f.

[14]. Trong cuốn Creare prodotti e servizi per catturare i clienti, chính Eyal đã tự mình dành một đoạn bàn về khả năng thao túng của chiến lược “móc câu”. Trong cuốn sách Come diventare indistraibili, ông thừa nhận bản thân đã rơi vào các cạm bẫy xao nhãng và cố gắng nhận diện nguyên nhân cũng như chống lại sự xói mòn của khả năng chú ý.

[15]. Cf. G. Wells – J. Horwitz – D. Seetharaman, “Facebook Knows Instagram Is Toxic for Teen Girls, Company Documents Show”, in The Wall Street Journal, September 14, 2021; F. Haugen, Il dovere di scegliere. La mia battaglia per la verità contro Facebook, Milan, Garzanti, 2023.

[16]. A. Lembke, L’era della dopamina. Come mantenere l’equilibrio nella società del “tutto e subito”, Macerata, Roi, 2022, 1.

[17]. Cf. M. Askari et Al., “Structure and trends of externalizing and internalizing psychiatric symptoms and gender differences among adolescents in the US from 1991 to 2018”, in Social Psychiatry and Psychiatric Epidemiology 57 (2022/4) 737-748; J. Twenge et Al., “Worldwide increases in adolescent loneliness”, in Journal of Adolescence 93 (2021) 257-269. Much research has been done in this area. Cf. J. Haidt, La generazione ansiosa…, op. cit., 32-56.

[18]. “Trong vài thập kỷ qua, chúng ta đã thấy thanh thiếu niên lê bước ở rìa cuộc sống trưởng thành mà không thực sự bước vào đó. Họ dường như bị kẹt trong một nỗi lo ngại ở ngưỡng cửa mà họ không thể vượt qua” (C. Ternynck, L’uomo di sabbia. Individualismo e perdita di sé, Milan, Vita e Pensiero, 2011, 127).

[19]. Ở Ý, dù dữ liệu ít nổi bật hơn, vẫn phản ánh xu hướng tương tự: 27% thanh niên (10–24 tuổi) chỉ có các mối quan hệ ảo; 49,3% thừa nhận mạng xã hội ảnh hưởng mạnh đến họ, với sự khác biệt lớn giữa nữ (65%) so với nam (31%). 34,2% cảm thấy buồn bã hoặc không hài lòng sau khi lướt mạng; 90% nhóm 19–24 tuổi nhận thấy khó giao tiếp trong đời sống thực do dành quá nhiều thời gian cho môi trường mạng (cf. Il Sole 24 Ore Scuola, November 29, 2024).

[20]. J. C. De Martin, Contro lo smartphonePer una tecnologia più democratica, Turin, Add, 2023, 179.

[21]. Về chủ đề này, có cuốn sách rất hữu ích của S. Garassini như: Smartphone. 10 ragioni per non regalarlo alla prima Comunione (e magari neanche alla Cresima), Milan, Ares, 2019.

[22]. Cf. A. Orben et Al., “Windows of developmental sensitivity to social media”, in Nature Communication, March 28, 2022; J. Haidt, La generazione ansiosa…, op. cit., 282 f.

[23]. Cf. “L’Australia vieta i social agli under 16, in Italia la metà dei giovani sarebbe d’accordo, ecco perché”, in Il Sole 24 Ore Scuola, November 29, 2024.

[24]. Cf. J. Twenge, Iperconnessi…op. cit., 352 f; S. Sassaroli – R. Lorenzini – G. Ruggiero (eds), Psicoterapia cognitiva dell’ansia. Rimuginio, controllo ed evitamento, Milan, Raffaello Cortina, 2006.

[25]. Cf. G. Cucci, “Il suicidio giovanile. Una drammatica realtà del nostro tempo”, in Civ. Catt. 2011 II 121-134.

[26]. “Bộ Quy tắc quy định rằng khi trẻ sử dụng, dịch vụ trực tuyến phải mặc định sử dụng cài đặt quyền riêng tư cao nhất, trừ khi có lý do chính đáng để không làm như vậy, luôn xem xét quyền lợi tốt nhất của trẻ. Điều này bao gồm việc không cho phép truy cập dữ liệu bởi người khác, theo dõi vị trí hay hồ sơ hành vi (như sắp xếp thuật toán, quảng cáo nhắm mục tiêu hoặc sử dụng dữ liệu theo cách khuyến khích trẻ tiếp tục tương tác), “ICO’s Children’s Code applies from today – what you need to know”, in Eversheds Sutherland. Retrieved, September 2, 2021