Những mục đồng trong Kinh Thánh là ai?

Trước hết, những mục đồng là những người được giao phó việc chăm sóc gia súc, phần lớn là dê hoặc chiên. Trong một nền văn minh mang tính du canh, du cư, các loài vật này là nguồn sống thiết yếu của con người. Dân Do Thái là một dân du mục, quen chăn dắt đàn vật của mình đến những nơi có nước và đồng cỏ.

Những người chăn chiên có thể là chủ của đàn vật, nhưng cũng có thể là con cái họ hoặc các tôi tớ, dù là người làm công hay nô lệ. Abel, Abraham, Isaac, Giacop và Đavit, những nhân vật lớn của Kinh Thánh, thường là những người chăn chiên (những người mục tử). Họ đôi khi liều cả mạng sống để bảo vệ đàn vật của mình. Trước khi đối đầu với Gôliat, chàng trai trẻ Đavit đã trình bày với vua Saun kinh nghiệm chiến đấu của mình như thế này: “Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết” (1 Sm 17, 34-35).

Vì sao những người mục tử lại trở thành vua?

Hình ảnh người chăn chiên (người mục tử) vì thế mang trong Kinh Thánh một giá trị cao quý thực sự. Những phẩm chất của người mục tử tốt lành trở thành mẫu mực cần noi theo. Biết dẫn dắt đàn chiên, chăm sóc và bảo vệ chúng, họ cũng chính là những người đại diện có khả năng dẫn dắt con người. Quả thế, người mục tử vừa là biểu tượng của quyền bính, vừa là biểu tượng của lòng nhân hậu.

Trong nền văn minh Cận Đông cổ đại, như nhà nghiên cứu Kinh Thánh Marie-Noëlle Thabut[1] nhắc lại, “các vị vua thường tự trình bày mình như những người mục tử của dân chúng. Khoảng năm 1750 trước Công Nguyên, Hammurabi, vua xứ Babylon, đã cho khắc trong bộ luật của mình trên đá và đề rằng: ‘‘Ta là người mục tử đem lại ơn cứu độ, và vương trượng của ta là công chính.’’

Vị vua đầu tiên của Ítraen, Saun, xuất thân từ một gia đình giàu có, sở hữu nhiều chiên lừa (1 Sm 9). Đavit, người củng cố nền quân chủ sau ông, là con trai của một người chăn nuôi những đàn gia súc nhỏ. Ngôn sứ Nathan đã nói với Đavit về sứ mạng vương đế của ông như sau: “Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ítraen” (2 Sm 7, 8). Chuyên viên Kinh Thánh Marie-Noëlle Thabut nhận xét: “Nhờ các ngôn sứ, người dân Ítraen đã hiểu rằng các vua chỉ đơn thuần là những người được ủy nhiệm, những ‘‘đại diện’’, thay mặt Thiên Chúa.”

Tuy nhiên, những người kế vị Đavit, các vị vua sau này của Ítraen, đã dẫn dân mình đến chỗ diệt vong. Chính vì thế, nơi các ngôn sứ, đặc biệt là Giêrêmia và Êdêkien, chúng ta thấy một lời tố cáo mạnh mẽ đối với những người chăn chiên xấu: “Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.” (Ed 34, 3-5)

Thiên Chúa – Người Chăn Chiên đích thực?

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nhiều lần được nhắc đến là người mục tử. Thánh vịnh 22 (23) tuyên xưng với niềm tín thác sâu xa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”. Chính Người là Đấng dẫn dắt dân Do Thái băng qua sa mạc tiến về Đất Hứa: “Ngài đã dẫn dân Ngài như dẫn dắt một đoàn chiên, nhờ tay ông Môsê và Aharon” (Tv 76 (77).

Khi vương quyền Ítraen sụp đổ, các ngôn sứ đã chuyển đến cho dân đang lâm cảnh thử thách một lời hứa đầy an ủi: ‘‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta (…) Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về’’ (Ed 34, 10-16).

Tân Ước vang vọng lời ngôn sứ Êdêkien qua dụ ngôn con chiên bị mất rồi được tìm thấy (Lc 15, 3-7 ; Mt 18, 12-14), cũng như trong diễn từ của Đức Giêsu về Người Mục Tử Nhân Lành: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 11).

Theo Đức Giê-su, thế nào là người mục tử tốt lành?

Đức Giêsu nói với các môn đệ: ‘‘Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi’’ (Ga 10, 14). Mục sư Antoine Nouis giải thích rằng : “Trong tiếng Hípri, cùng một động từ ‘‘biết’’ vừa có nghĩa là nhận biết vừa có nghĩa là yêu mến. Đức Giêsu nói đến một sự hiểu biết thân mật, chân thật. Người mời gọi chúng ta tin rằng chúng ta được Thiên Chúa biết đến và yêu thương.”[2] Chính vì thế, Người có thể dẫn dắt đoàn chiên đến ơn cứu độ: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.” (Ga 10, 27)

Người Mục Tử Nhân Lành “hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên”. Theo mục sư Antoine Nouis, điều này không chỉ có nghĩa là chết thay, mà còn là “hiến dâng chính sự sống mình để ban sự sống cho tha nhân”, trái ngược hoàn toàn với thái độ của người mục tử xấu: “Khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà chạy trốn” (Ga 10, 12).

Không chỉ ban sự sống, Đức Giêsu, Người Mục Tử Nhân Lành, còn ban cho chiên của Người sự sống đời đời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28) Mối dây liên kết giữa Người Chăn Chiên và đoàn chiên của Người, kể cả những con chiên lạc xa Người, “mang một tính chất bất khả hủy diệt, được ghi khắc trong chính sự vĩnh hằng của Thiên Chúa”, mục sư Antoine Nouis kết luận.

Vì sao các mục đồng trong Tin Mừng Luca lại là những người đầu tiên đón nhận loan báo về sự ra đời của Chúa?

Tin Mừng theo thánh Luca (2, 6-18), được công bố trong Thánh lễ đêm Giáng Sinh, thuật lại rằng vào lúc Đức Giêsu chào đời, các thiên thần đã đến gặp “những người chăn chiên đang sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn chiên của họ”. Vào thời Đức Giêsu, các mục đồng, vốn là những người làm công cho chủ đàn vật, thường bị nghi ngờ là không trung thực đối với chủ của mình. Theo nhận định của Antoine Nouis, “họ đứng ở tận đáy của thang bậc xã hội”. Thế nhưng, chính với những con người bị gạt ra bên lề xã hội này mà các thiên thần, theo thánh Luca, đã loan báo Tin Mừng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa.” (Lc 2, 11).

Nhiều người nhận thấy nơi đặc ân này một dấu chỉ báo trước về sự quan tâm đặc biệt của Đức Kitô đối với những người bé mọn và nghèo khó. Nơi các mục đồng, Tin Mừng nhận ra những phẩm chất thiết yếu của người tín hữu: khả năng lắng nghe, sự nhạy bén tâm hồn và thái độ chú tâm. Antoine Nouis nhận định: “Các mục đồng là những người đầu tiên được mời đến gặp Chúa bởi vì họ là những người canh thức. Hơn ai hết, họ thường chiêm ngắm bầu trời đầy sao và lắng nghe điều mà ngọn gió thì thầm.”

_____

“Những chứng nhân đầu tiên của điều cốt yếu”

(Trích Tông huấn Admirabile signum của Đức Thánh Cha Phanxicô, ngày 1 tháng 12 năm 2019)

“ “Chúng ta hãy sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, việc mà Chúa đã cho chúng ta được biết” (Lc 2, 15): đó là lời các mục đồng thốt lên sau khi được các thiên thần loan báo. Đây là một giáo huấn rất đẹp được trao ban cho chúng ta trong tính giản dị của trình thuật Tin Mừng. Trái ngược với bao người đang mải mê với trăm công nghìn việc, các mục đồng trở thành những chứng nhân đầu tiên của điều cốt yếu, đó là ơn cứu độ được ban tặng. Chính những người khiêm hạ và nghèo khó nhất là những người biết đón nhận biến cố Nhập Thể. Trước việc Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta nơi Hài Nhi Giêsu, các mục đồng đã đáp lại bằng hành động lên đường tiến về Người, để bước vào một cuộc gặp gỡ chan chứa tình yêu và niềm kinh ngạc tri ân ”.


Lm. Giuse Nguyễn Tùng Anh chuyển ngữ

Ngun : Báo La Croix

https://www.la-croix.com/religion/les-bergers-dans-la-bible-une-figure-d-autorite-et-de-bienveillance-20241218

[1] Tác giả cuốn sách ‘‘Cựu Ước theo từng Chúa Nhật’’ (L’Ancien Testament au fil des dimanches), Artège, 2024.

[2] Tác giả cuốn sách ‘‘Kinh Thánh, chú giải toàn bộ theo từng câu’’ (La Bible, commentaire intégral verset par verset), Salvator-Olivétan (vol. 6 paru en 2024)