Cho đến hiện tại, Đức Giáo hoàng Lêô XIV có thể được ghi nhận là “hoàn hảo”. Không ai tìm thấy lỗi của ngài trong những điều ngài nói và làm (hoặc không làm). Mọi người đều đồng ý rằng ngài không thể được phân loại là “cấp tiến” (hoặc “tự do”) hay “bảo thủ” (hoặc “duy truyền thống”). Trái lại, không ai đi đến mức thừa nhận rằng những phân loại này đã lỗi thời, kể cả trong chính trị, trong đó chủ nghĩa dân túy bị đẩy sang ” cánh hữu” (hoặc thậm chí sang “cực hữu” khó giao du được) đã thu hút cử tri mà về mặt xã hội học được cho là “cánh tả”. Và hiếm người mất công giải mã những thông điệp của Đức tân Giáo hoàng, chỉ thấy trong đó những lời khuyên nhủ đạo đức, không mấy làm khó chịu vì chúng đi kèm với một tính hiện thực giản dị về tình trạng hiện tại của thế giới và về sứ mạng mà Giáo hội và nhà lãnh đạo hiện tại của Giáo hội đang đảm nhận.

Bình an của Chúa Kitô

Trên thực tế, hai chủ đề chính nổi lên từ những phát biểu đầu tiên của Đức Lêô XIV là hòa bình và tầm quan trọng của mối tương quan với Chúa Kitô. Người ta thường mong đợi không ít hơn cũng không nhiều hơn từ một vị Giáo hoàng. Mỗi người đều biết rằng thời sự hiện tại đều bị chi phối bởi chiến tranh (quân sự, nhưng cả kinh tế, văn hóa và thậm chí là tôn giáo), vốn gây ra bất công, đau khổ và bất hạnh mà người ta không dám thờ ơ. Và chúng ta thấy thật tầm thường khi “vị đại thuyền trưởng” của đạo Công giáo nhắc nhở rằng tổ chức mà ngài phụ trách chỉ dùng để duy trì sự hiện diện tích cực và nồng nhiệt của Đấng sáng lập ra nó.

Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét kỹ hơn, dường như Đức Lêô XIV đã nêu rõ rằng hòa bình không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt khách quan của xung đột, nhưng còn là một khuynh hướng bên trong. Điều này không thể đạt được chỉ thông qua hòa giải, hoặc thậm chí là thỏa hiệp, cũng không thể đạt được chỉ bằng sức mạnh ý chí đơn phương quyết định tránh đối đầu và bảo vệ bản thân bằng sự thanh thản. Bởi vì đó là món quà của Thiên Chúa, cần phải khám phá, cầu xin và chia sẻ để có thể nhận được nó. Điều này cuối cùng có nghĩa là mở lòng mình ra với Đấng – Chúa Giêsu thành Nazareth, bị đóng đinh và phục sinh – mang đến và ban tặng sự bình an này, sự bình an không giống như sự yên lặng uể oải không có ham muốn hay từ bỏ.

Một thông điệp ít tầm thường hơn người ta nghĩ

Hai trục của bài giảng khai mạc này, một là thế tục (hòa bình trên trái đất) và một là tâm linh (sự sẵn sàng cá nhân với Chúa Kitô) do đó hội tụ và trở thành một. Và mọi việc diễn ra rất tốt đẹp. Trước tiên, vì không ai tuyên bố chống lại hòa bình: họ chỉ tuyên bố tiến hành chiến tranh để tự vệ hoặc ngăn chặn “kẻ xấu” gây hại. Tiếp đến, bởi vì thật tự nhiên việc Đức Giáo hoàng nói về Chúa Kitô, nhưng người ta không để ý nhiều, vì tín ngưỡng được coi là vấn đề riêng tư, mà những biểu hiện tín ngưỡng và văn hóa chỉ là một (chứ không phải là tham số quyết định nhất) trong số nhiều tham số can thiệp vào tiến trình của thế giới.

Tuy nhiên, thông điệp phát sinh từ tất cả những điều này không ít tầm thường như người ta nói để không bị làm phiền, bằng cách phân loại những gì thuộc phạm vi công cộng trong khuôn khổ bình thường (nếu không muốn nói là hiển nhiên), và bằng cách xếp những gì có thể chất vấn trực tiếp mỗi người vào phạm vi nội tâm bất khả xâm phạm và, dù thế nào đi nữa, không thể bình luận. Nhưng trong tương lai không xa, Đức Giáo hoàng có nguy cơ cao sẽ gây ngạc nhiên, gây thất vọng và gây tức giận, cả trong và ngoài Giáo hội. Khi đó, việc ghi nhớ những tuyên bố đầu tiên của ngài sẽ rất hữu ích, vì chúng rõ ràng bàn về những điều cốt yếu (ít nhất là theo quan điểm của ngài) và có thể dùng làm tham chiếu.

Sứ mạng trong thế giới như nó là

Khi tuyên bố rằng ngài sẽ làm mọi thứ có thể để “các vũ khí im lặng” và khi yêu cầu “chúng ta gặp nhau, đối thoại và đàm phán”, Đức Lêô XIV không mong đợi lời nói của mình được lắng nghe và tuân theo, như thể chúng có năng lực kỳ diệu, hoặc như thể ngài có công thức không thể sai lầm. Vì ngài không che giấu rằng sự hòa giải đòi hỏi sự tha thứ và cả lòng can đảm – nói cách khác, sự hoán cải, trong bối cảnh mà nhiều người “thấy đức tin Kitô giáo là phi lý, dành riêng cho những người yếu đuối và thiếu thông minh, […] và thích những xác tín khác hơn, chẳng hạn như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực, lạc thú…”.

Chính tình trạng này của thế giới khiến cho việc loan báo Tin Mừng trở nên cấp thiết. Việc loan báo Tin Mừng này bắt đầu bằng việc tập trung lại vào sứ mạng không chỉ của những người kế vị các tông đồ và những người liên kết với họ, mà còn của tất cả những người đã chịu phép rửa tội, những người, trong một môi trường như vậy, “cuối cùng sống trong chủ nghĩa vô thần trên thực tế”. Kitô giáo hoàn toàn bên ngoài này có thể bao gồm lòng trung thành với một cộng đồng hoặc với tổ chức Giáo hội, với các giá trị, với đạo đức, và thậm chí với Chúa Giêsu, “được ngưỡng mộ như một con người”, nhưng “bị giảm thiểu thành một dạng nhà lãnh đạo có đặc sủng hoặc siêu nhân”.

“Quy Kitô luận” (Đặt Chúa Kitô làm trung tâm)

Do đó, Đức Giáo hoàng rao giảng một “quy Kitô luận”, trong đó Con Thiên Chúa làm người không phải là sự phóng chiếu các lý tưởng hoàn toàn con người, mà là Đấng Cứu Độ: Đấng ban cho con người những gì họ cảm thấy cần, nhưng không thể tự mình đạt được hoặc thậm chí không thể một mình hình dung ra. Và Chúa Giêsu không áp đặt điều gì, nhưng mặc khải, qua những gì Người nói, làm và trải qua, bí quyết của Sự sống mạnh hơn sự chết, đó là hiến dâng chính mình mà không giữ lại bất cứ điều gì hoặc sợ đánh mất chính mình. Người đề nghị chúng ta hãy hiệp nhất với Người và đón nhận Thánh Thần của Người để trở thành con cái của Cha trên trời.

Mối quan hệ cá nhân này với Chúa Kitô, nơi mà như và nhờ Người, chúng ta trao hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho người khác, không phải là điều mới mẻ. Các tông đồ của Chúa Giêsu và các vị tử đạo đầu tiên đã sống điều này trước khi các nhà thần học và nhà thần bí nghĩ đến. Thánh Augustinô, người cảm hứng của dòng tu mà Đức Lêô XIV sau này gia nhập, đã làm chứng về điều này trong cuốn Tự Thuật của mình. Bằng cách vượt ra ngoài những tranh cãi về giáo hội học trong thời kỳ Cải cách, trường phái tu đức Pháp của Đức Hồng y de Bérulle đã tạo nên một thời kỳ phục hưng được thúc đẩy bởi những gì chúng ta gọi là “Quy Kitô luận”. Vào thời hiện đại, những người đã được phong thánh chính thức là John Henry Newman, Thánh Têrêsa thành Lisieux và Charles de Foucauld đã coi linh đạo (tức là kinh nghiệm mật thiết kết hợp với Chúa Kitô) ít nhất cũng quan trọng như tính chính thống của tín điều, lề luật và tính khả tín của ý tưởng về “Thiên Chúa”.

Vấn đề thực sự duy nhất

Tương tự như vậy, mới được bầu vào năm 1978, Thánh Gioan Phaolô II đã tuyên bố: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô.” Và thông điệp đầu tiên của ngài, Redemptor hominis, đã trình bày rõ ràng Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ (chứ không phải là bậc thầy, bạn hữu hay người bảo lãnh). Quyền tối thượng được công nhận cho ơn cứu rỗi nhờ Chúa Kitô sẽ thúc đẩy sự giải phóng Đông Âu và do đó không khép kín trong một khái niệm trừu tượng đầy an ủi. Ngược lại, sự kết hợp với Chúa Con, Đấng đã đối mặt và chiến thắng cái chết, bó buộc, khi phải đối mặt với thế giới như nó là, một mặt phải dấn thân, mặt khác phải có tính hiện thực mà không tuyệt vọng. Đây chắc chắn là những gì làm cơ sở cho quyết tâm của Đức Lêô XIV ra sức hành động, trên bình diện có thể gọi là ngoại giao, để chấm dứt xung đột vũ trang. Giống như những vị tiền nhiệm của mình, ngài sẽ dựa vào một sự khôn ngoan vốn không hoàn toàn bỏ rơi con người được tạo dựng theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, ngay cả khi họ ít nhiều quên lãng Ngài.

Nhưng việc nhấn mạnh vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ cũng làm sáng tỏ cách Đức tân Giáo hoàng sẽ giải quyết các cuộc tranh luận đang diễn ra trong Giáo hội, dù chúng liên quan đến việc thực thi quyền lực, phụng vụ, vị trí của phụ nữ, tình dục, lạm dụng mọi hình thức, hay bộ máy quan liêu và tài chính của Vatican. Bất kể những đề xuất hay yêu cầu nào, có thể chắc chắn rằng các tiêu chí sẽ không phải là tiêu chí của chủ nghĩa duy lý thực dụng, cũng không phải của ý thức hệ bình đẳng hay tinh hoa, thức tỉnh (woke) hay phản thức tỉnh, mà là câu trả lời cho một câu hỏi duy nhất trong mọi trường hợp: biện pháp được hình dung hoặc yêu cầu sẽ cho phép chúng ta nhận ra, đón nhận và đi theo Chúa Kitô như Đấng Cứu Độ duy nhất như thế nào? Đây là loại lập luận mà những người này và người kia đều quan tâm chuẩn bị và đưa ra. Chúng ta chỉ có thể vui mừng về điều này.

Jean Duchesne

Chuyển ngữ: Tý Linh

Theo:  Aleteia

Nguồn: xuanbichvietnam.net