Thiết tưởng nên hiểu đôi chút về cách dùng từ “linh mục” hay “chức linh mục” trong Tân Ước. Tiếng Hy Lạp để chỉ linh mục, hiereus (“tư tế”), không bao giờ được dùng trong Tân Ước để chỉ thị một chức vụ trong Hội thánh. Từ ngữ này được áp dụng vào chính Đức Giêsu trong thư Do Thái. Sau đó ít lâu, có lẽ vào khoảng năm 200, bắt đầu được áp dụng cho các giám mục và sau đó cho các linh mục hoặc trưởng lão. Chắc chắn rằng các linh mục như được nói đến trong các sách Tin Mừng, là các tư tế trong Cựu Ước, chứ không phải linh mục trong Hội thánh Kitô.

Vào hậu bán thế kỷ thứ nhất, tức là một vài thập niên sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, thánh Phêrô gọi toàn thể dân Kitô là “dòng giống được lựa chọn, hàng linh mục hoàng tộc, dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2:9). Vào một giai đoạn nào đó trong thời hiện đại, danh xưng này đã phổ biến để diễn tả một thực tại gọi là “chức linh mục của giáo dân.”

Tuy nhiên, đó không phải là một kiểu nói chính xác, vì lời thánh Phêrô không chỉ áp dụng cho giáo dân, nhưng cho tất cả các Kitô hữu, cho dù họ ở địa vị nào hay thi hành tác vụ nào trong Hội thánh. Chức linh mục như thánh Tông đồ nói tới – hiểu như một chức linh mục để ca tụng Thiên Chúa, để làm việc thiện mà nhờ đó Thiên Chúa được vinh danh, và để dâng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô (1 Pr 2,5, 9, 12) – thì được tất cả các tín hữu môn đệ Chúa Giêsu chia sẻ. Ý nghĩa hạn chế của chức linh mục thừa tác chỉ về một vai trò đặc biệt mà người có chức thánh thi hành, cách riêng là trong cử hành Thánh thể và các bí tích khác của cộng đoàn kitô hữu.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P

Nguồn: daminhvn