Thời gian Mùa Vọng vẫn hằng nhắc nhở người Kitô hữu hướng về trời cao, bởi lẽ“quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Thế nhưng, không ít người lại xem ước vọng đó như lối sống tiêu cực của những kẻ hèn nhát không dám đối diện với thực tại đời này, chỉ lo đi tìm một chốn trời cao nào đó. Và đó cũng là những lời mà triết gia Friedrich Nietzsche nói về tôn giáo, như những kẻ trốn chạy bổn phận ở đời này. Ngay phần mở đầu tác phẩm Zarathustra Đã Nói Như Thế, Nietzsche (ngang qua nhà tiên tri Zarathustra) đã mời gọi con người: “Hãy trung thành với mặt đất… Tình yêu và tri thức của anh em phải phụng sự ý nghĩa của trái đất[1].

Với lời mời gọi “Hãy trung thành với mặt đất”, Nietzsche trao gửi cho người đương thời một thông điệp rõ ràng và quyết liệt về một ý nghĩa đầy hiện sinh rằng con người hãy gắn bó đời mình với những vấn nạn của kiếp nhân sinh: đôi chân chúng ta đang đặt trên “mặt đất” này nên xin hãy bám dính vào nó thay vì chạy theo những ảo tưởng hướng về trời cao. Nếu nhìn ở một khía cạnh nào đó, những lời của Nietzsche mang đến những ý nghĩa tốt đẹp vì nó mời gọi con người dấn thân cho cuộc đời, cho xã hội và cho nhân sinh cũng như loại trừ thái độ trốn tránh bổn phận và trách nhiệm. Dĩ nhiên, mặt đất mà Nietzsche đề cập đến chính là tất cả những chiều kích thuộc kiếp nhân sinh. Thiết nghĩ, ngang qua những lời lẽ xem ra có vẻ gay gắt của triết gia Nietzsche, chúng ta được mời gọi khám phá lại điều mà “chúng ta vẫn nóng lòng mong đợi”, điều mà chúng ta vẫn đang ngâm nga nơi những Thánh Lễ trong khoảng thời gian đặc biệt này: “Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi, cầu xin hãy mưa Đấng Thiên Sai…”. Suy gẫm ý tưởng này trong thời gian Mùa Vọng cũng mang đến những hữu ích nhất định cho sự thăng tiến đời sống và tâm thế đón đợi.

  1. Con người không xa rời “mặt đất”

Kitô giáo sống tâm tình Mùa Vọng với tâm thế ngước nhìn về trời cao và đón chờ ánh sáng. Nơi đó, chúng ta khám phá ra chân dung Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để cho ta thấy một vị Thiên Chúa không xa rời với “mặt đất” này nhưng đã chấp nhận bám dính vào phận người; không phải một Thiên Chúa chỉ đứng nhìn con người từ trời cao nhưng đã làm người để thông chia phận người với chúng ta. Hành trình dương thế của Đức Giêsu cho thấy rằng Ngài chẳng hề xa rời kiếp nhân sinh: ngài trải qua mọi sự trong kiếp người, dĩ nhiên, trừ tội lỗi như thư Hípri diễn tả (Hr 4,15). Ngài bước vào cuộc lữ hành nơi dương thế và trải qua những thực tại của đời này. Ngài đã chịu đau khổ, chịu chết. Ngài trở nên bảo chứng niềm hy vọng cho chúng ta, những người đang tiến bước dưới ánh sáng và mong đợi Ánh Sáng đích thực đến soi rọi đường về quê trời.

Đức Giêsu là Ánh Sáng Thiên Chúa đã đến trên mặt đất này, đó là nguồn an ủi cho kiếp nhân sinh và mời gọi con người hướng về trời cao. Đó là viễn cảnh mà chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới chứ chẳng phải là một ảo tưởng lơ lửng nào đó. Chúng ta đón Mùa Vọng, để đón ánh sáng, dĩ nhiên, trong tâm thế của những người lữ hành đang bước đi và dấn thân cho mặt đất này. Ánh sáng Đức Giêsu soi sáng cho ta thấy một Thiên Chúa đầy yêu thương như thế. Nhưng ánh sáng Chúa cũng soi vào cõi lòng để ta thấy một giá trị lớn lao mà lắm lúc ta lãng quên. Đó là sự thật về một vị Thiên Chúa đã đến làm người và Ngài sẽ còn lại đến trong vinh quang. Vấn đề là ta phải sống sao để có thể hân hoan đón Ngài trong giờ phút đó. Ở đây, lời mời gọi của Nietzsche được soi sáng và biện hộ, quả vậy, người Kitô hữu được mời gọi dấn thân cho mặt đất này, điều mà giáo huấn của Giáo Hội trình bày cách rõ ràng. Dĩ nhiên, bên cạnh đó, chiều kích hướng thượng cũng không thể lãng quên và việc trung thành với mặt đất trở thành cách thế nâng ta vướn tới trời cao.

Từ những ý tưởng đó, trước hết, người Kitô hữu xác quyết rằng mình không phải là những kẻ trốn chạy khỏi thực tại đời này, hay xa rời “mặt đất”, trái lại, ta sống trong tâm thế của những người đang sống trong thực tại và đón nhận thực tại với niềm xác quyết mạnh mẽ, không chút mơ hồ về đích điểm đời mình. Dựa trên nền tảng mọi người đều do Thiên Chúa dựng nên và được mời gọi sống tình hiệp thông với nhau, Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo khẳng định con người vốn là hữu thể xã hội, nghĩa là không thể sống tách biệt mà phải sống trong cộng đồng, vì Thiên Chúa muốn con người sống trong hiệp thông, hợp tác và chia sẻ trách nhiệm với người khác. Tội lỗi làm mờ hình ảnh Thiên Chúa trong con người: “Vì mọi người đều phạm tội, thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 3,23). Tuy nhiên, qua mầu nhiệm Đức Kitô, phẩm giá con người được phục hồi: “Ai thuộc về Đức Kitô thì là tạo vật mới; cái cũ đã qua, kìa, cái mới đã đến” (2Cr 5,17). Ý tưởng người Kitô hữu không xa rời “mặt đất” này được diễn tả nơi tình liên đới nhân loại, cụ thể hoá qua ba khía cạnh:

a. Tính xã hội và liên đới tự nhiên của con người: Con người mang hình ảnh Thiên Chúa, bên cạnh đó, còn là hữu thể xã hội[2], được tạo dựng để sống trong cộng đồng và hợp tác với nhau. Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo nhấn mạnh rằng tình liên đới nhân loại xuất phát từ nhận thức phẩm giá con người và bình đẳng về nhân vị. Mỗi người đều có trách nhiệm quan tâm, chia sẻ và hợp tác vì lợi ích chung của cộng đồng. Thánh Phaolô ví mối liên hệ giữa các thành phần trong xã hội như các chi thể của một thân thể:“Nếu một chi thể đau, tất cả chi thể khác cùng đau; nếu một chi thể được tôn trọng, tất cả chi thể cùng vui mừng” (1Cr 12,26). Điều này nhấn mạnh rằng không ai sống tách biệt, và mọi hành động nhằm phục vụ người khác cũng chính là phục vụ Thiên Chúa.

b. Trách nhiệm xây dựng xã hội: Liên đới nhân loại không chỉ là tình cảm mà còn là trách nhiệm thực hành trong đời sống xã hội[3]. Con người được mời gọi tham gia vào việc xây dựng xã hội công bằng, hòa hợp và nhân bản, thông qua các hành động như bảo vệ quyền con người, giáo dục, phát triển kinh tế – xã hội, môi trường. Từ đó, mọi hoạt động hướng đến phúc lợi chung, sự công bằng và tôn trọng phẩm giá con người đều là thực hành trực tiếp của tình liên đới nhân loại.

c. Liên đới và sự phát triển bản thân: Liên đới nhân loại cũng giúp phát triển cá nhân. Khi mỗi người đóng góp cho cộng đồng, họ không chỉ thực hiện trách nhiệm xã hội mà còn trở nên hoàn thiện hơn về nhân cách, đạo đức và tinh thần. Điều này phù hợp với tư tưởng Kitô giáo rằng con người được mời gọi sống hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân, để cùng nhau tiến đến sự thăng tiến chung.

Nói chung, Giáo huấn của Hội Thánh Công giáo diễn tả rất rõ vị thế, chỗ đứng của chúng ta trên trần gian này và hơn nữa, còn cho thấy vai trò và sứ vụ của người Kitô hữu, để phát triển xã hội, mưu cầu lợi ích cho tha nhân và trên hết là để làm sáng danh Chúa. Một sứ vụ không xa rời mặt đất này!

  1. Hướng về ánh sáng từ trời cao soi rọi cho cuộc hiện sinh này

Với Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, mối dây liên hệ chặt chẽ giữa con người với xã hội cũng như kiếp nhân sinh một lần nữa được tái khám phá và khẳng định, nghĩa là người Kitô hữu không xa rời “mặt đất” này như một vài nhận định phiến diện đã nêu lên. Bên cạnh đó, người Kitô hữu cũng không quên cứu cánh của mình: bước đi trên mặt đất này mà tâm hồn luôn hướng về ánh sáng từ trời cao soi rọi cho niềm hy vọng đích thực. Điều đó nhấn mạnh rằng người Kitô hữu ý thức rõ về căn tính và đích điểm của bản thân. Làm sao có thể quên được ân huệ tạo dựng và cứu chuộc cũng như là thực tại trời cao đang vẫy gọi?

Hơn thế nữa, hướng về ánh sáng từ trời cao soi rọi cho những thực tại đời này như đau khổ, bệnh tật, chia ly… và cả sự chết. Trong ngôn ngữ của Giáo Hội, thuật từ ‘Mùa Vọng’ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa chờ đợi nhưng còn mang chiều kích hiện tại. Hiện tại nghĩa là ánh sáng đã có mặt, Đức Kitô đang ở với và giữa chúng ta. Ánh sáng của Ngài đã chiếu toả trên mỗi người cũng nhưng trên những vấn nạn của kiếp nhân sinh. Làm sao con người có thể đối diện với những khổ đau kiếp này mà không rơi vào thái độ bi quan? “Hướng về trời cao” mở ra một tâm thế sống đầy tích cực. Chúng ta ý thức rõ ràng những thực tại đời này không phải là vô nghĩa và hành trình dương thế của chúng ta có một đích điểm xác thực, đó là nơi Thiên Chúa. Những người Kitô hữu, sống thực tại đời này mà mắt luôn hướng về quê trời. Niềm hy vọng đích thực giúp chúng ta sống trọn vẹn thực tại và đón nhận tất cả với niềm xác quyết. Đặt để trong bối cảnh này, tất cả mối dây liên đới giữa con người với tha nhân, với xã hội và với kiếp nhân sinh này tìm được giá trị đích thực và bền vững. Người Kitô hữu không chỉ hướng đến tha nhân trong khung cảnh và bổn phận của kiếp nhân sinh nhưng trước hết và đầu tiên, trong bối cảnh của sự hiệp thông Kitô giáo theo mẫu gương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Tóm lại

Con người không xa rời “mặt đất” là điều cần được xác quyết, bởi lẽ, người Kitô hữu, theo Giáo huấn của Giáo Hội, luôn ý thức được sứ mạng dấn thân của mình nơi hành trình dương thế này. Không những vậy, đó còn là một sự dấn thân mạnh mẽ hầu mang lại ơn cứu độ cho hết thảy mọi người. Những lời của triết gia Friedrich Nietzsche thật ý nghĩa cho những ai quên mất bổn phận của mình nhưng cũng đồng thời là một lời tiếp sức cho những ai đang dấn thân cho “mặt đất” này. Quả thật, người Kitô hữu luôn hướng về trời cao nơi mà Đức Giêsu hằng ngự bên hữu Chúa Cha, đó là đích điểm của chúng ta. Những người Kitô hữu không vươn lên “trời” trong những ảo tưởng nhưng là tiến bước trong sự dấn thân để mỗi bước tiến không những là một sự gắn bó với “mặt đất” này mà còn là bước đệm giúp ta vươn tới trời cao.


Tu sĩ Giuse Nguyễn Đình Trường – Học Viện Ngôi Lời

Nguồn: ngoiloivn

Chú thích:

[1] F.Nietzsche, Nazathustra đã nói như thế, Dg: Trần Xuân Kiêm (Sài Gòn: Nxb An Tiêm, 1971), tr.9.

[2] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Uỷ Ban Bác Ái Xã Hội, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo (Nxb Tôn Giáo, 2007), số 149, tr.122.

[3] Sđd, số 151, tr.124.