Linh mục Phanxicô Xavie Đinh Trọng Tự

Tại sao đời cha là đặc biệt?

I. Tuổi thơ cơ cực

Em bé Tự sinh ngày 17/11/1937 (tuổi chính xác), tuổi trong giấy tờ là ngài sinh năm 1939. Cha là ông Phanxicô Đinh Trọng Chức và mẹ là bà Anê Nguyễn Thị Mây tại Tu Linh, Đáp Khê, Hải Dương, giáo phận Hải Phòng. Sau qua sông, nhập học tiểu chủng viện bên Bắc Ninh. Mới chỉ tám tháng tuổi, em đã mất mẹ. Từ đó, tấm thân bé nhỏ kia chỉ còn biết theo bú bố để sống qua ngày. Nhưng cuộc đời nghiệt ngã không dừng lại ở đó. Vài năm sau, đến lượt người cha cũng ra đi, để lại em bơ vơ giữa cõi đời. Em Tự được bà con thương tình ẵm đi, nay đây mai đó, bú nhờ bầu sữa của người này người kia. Từ tấm bé đã mang phận mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mà ai trong cõi đời này lại có thể gọi là hạnh phúc khi mang kiếp mồ côi?

II. Ơn gọi

Ngài kể rằng lúc 7 tuổi khi đang đi chăn trâu, mò cua bắt ốc ngoài đồng, thì có ông cha gần xứ đến tìm các chú để đi tu. Cha sở liền cho người ra ngoài đồng kêu cậu Tự về đi theo cha đó, để cha đó nuôi và đi tu. Ơn gọi này giống vua Đavid trong Cựu Ước đang chăn chiên ngoài đồng liền được Samuel kêu về xức dầu thánh hiến. 

Vì hoàn cảnh đất nước mọi người di cư vào Nam. Đến khi học xong triết học, mỗi thầy thần học phải nhập vào một giáo phận. Ngài bảo tôi không chọn Đà Lạt nơi có nhiều bà con, tôi không chọn Sài Gòn phố thị giàu sang sung sướng, nhưng tôi chọn giáo phận Cần Thơ, một miền đất truyền giáo nghèo xa xôi vùng cuối Việt. Ngay từ đây ngài đã ý thức sứ mệnh đi tu là để truyền giáo. 

III. Linh mục trẻ

Sau khi học xong Triết học, chính phủ có lệnh kêu gọi tổng động viên quân dịch và một nửa số tu sĩ cũng phải tham gia. Đức cha bảo ngài hy sinh đi giúp quân đội đi, khi về thì không phải giúp 1 năm mục vụ nữa. Ngài vâng lời, nhưng khi giúp quân đội xong, thì chương trình lại đổi, nên ngài lại phải giúp mục vụ giáo xứ thêm 1 năm, mấy anh em ở nhà chịu chức trước 1 năm. Coi như ở lại lớp sau vậy.


Sau khi được chịu chức linh mục ngày 14/05/1968 tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ngài làm cha giáo sư Tiểu Chúng Viện Á Thánh Quý 1 năm, sau đó vâng lời Đức cha làm Tuyên úy Quân đội. Lúc này nhà xứ là một chuồng heo cũ của các sĩ quan được sửa sang lại (bây giờ là trường Cao Đẳng Y Tế Cần Thơ). Sau ngài về trung tâm quân đội thì nhà xứ cũng trong nhà kho được sửa lại (nay là trường Bùi Hữu Nghĩa – Cần Thơ)

Sau khi Đức cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang đi họp Công Đồng Vatican II về, Đức cha gọi cha Tự lên bảo: “Giáo Hội cần mở các hoạt động mục vụ, Cha có sẵn sàng đảm nhận tiếp tôi không”? Cha Tự trả lời: “Vâng, Đức cha ủng hộ thì con sẵn sàng vâng lời”. Thế là Đức cha Quang giao cho ngài ít đồng và một cái máy chiếu phim, ngài đi khắp nơi vào các vùng sâu vùng xa, nông thôn để trình chiếu bộ phim: Áo Dòng Đẫm Máu (phim nói về thánh tử đạo Linh Mục Philipphê Phan Văn Minh). Ngài bảo vui: “Chức này như là giám đốc Trung tâm mục vụ đầu tiên của giáo phận đấy”. Nhưng cũng vì vâng lời nhiệm vụ này mà từ Đại úy hạ xuống bậc còn Thiếu úy. 

Khi ở với cha Matthêu Nguyễn Mạnh Thu – Cha Tuyên úy trưởng Tư lệnh Vùng 4, còn cha Tự làm phó, thầy Linh Đăng kể lại một kỷ niệm khó quên. Có lần, không rõ vì hiểu lầm hay lý do gì, ngay trên bàn cơm, cha Thu trách cha Tự sao không bảo nhân viên dọn phân bò ngoài sân, để dơ bẩn như thế. Nghe vậy, cha Tự lặng lẽ đứng dậy, tự tay cầm dụng cụ ra hốt phân bò, nước mắt cứ lăn dài trên má. Chứng kiến cảnh ấy, thầy Linh Đăng liền hỏi:

– Thưa cha, cha cũng là linh mục, sao lại để cha Thu trách mắng như vậy, sao cha không nói lại?

Cha Tự chỉ mỉm cười hiền lành và đáp:

– Không sao đâu, ngài là cha sở mà.

Qua câu chuyện nhỏ bé ấy, ta thấy nơi cha Tự một tinh thần khiêm nhường và hy sinh nhẫn nhục thật phi thường, âm thầm tỏa sáng giữa dòng đời.

Khi làm Hiệu trưởng trường Đồng Tiến (nay là Trung học Bùi Hữu Nghĩa), cha vừa lãnh được tháng lương đầu tiên thì không may, có một học sinh lén cạy cửa sổ lấy hết số tiền ấy. Sau đó, cha để ý thấy em học trò nhà nghèo kia bỗng đeo một chiếc đồng hồ vàng, liền nhẹ nhàng gọi em lại hỏi. Em cúi đầu, nước mắt rưng rưng thú nhận:

– Thưa cha, con đã lấy tiền trên bàn của cha để đưa mẹ mua gạo nuôi các em…

Nghe đến đó, cha không trách phạt, cũng chẳng mắng mỏ, mà chỉ ân cần tha thứ, rồi còn trao cho em cả số tiền còn lại.

Câu chuyện nhỏ ấy cho thấy tấm lòng của cha luôn nghiêng về người nghèo khổ, sẵn sàng hy sinh cả phần mình để nâng đỡ kẻ túng thiếu.

Nhân dịp lễ này kia, các thầy cô giáo tặng cha áo mới để mặc, ngày hôm sau đã thấy mấy người khác mặc áo mới của cha rồi. Ai cho gì ngài cũng cho đi hết. 

Khi cha Matthêu Nguyễn Mạnh Thu lâm bệnh nặng, phải nằm điều trị trong bệnh viện suốt một thời gian dài, công trình Trung tâm Công tác Xã hội (nay là Trường Khuyết tật Bình Thủy – Cần Thơ) lúc ấy vẫn còn dang dở. Nhiều người đề nghị cha Tự tạm thay lên làm trưởng để tiếp tục hoàn thành công trình. Nhưng cha Tự dứt khoát từ chối. Ngài nhẹ nhàng nói:
– Tôi không thể làm như vậy. Người anh em của tôi đang đau bệnh, nếu tôi lên thay thì chẳng khác nào giành quyền của cha Thu. Như thế, ngài sẽ càng thêm đau khổ và bệnh tình sẽ nặng hơn. Tôi không bao giờ làm điều đó.

Lời từ chối ấy không phải vì ngại trách nhiệm, mà vì cha Tự luôn sống với tấm lòng nghĩ cho người khác trước tiên. Một lần nữa, nhân cách khiêm nhường và tình huynh đệ của ngài tỏa sáng.

IV. 30/04/1975

Ngày 30/04/1975, trong cơn loạn lạc của thời cuộc, cha Tự nhận lệnh bổ nhiệm làm cha sở nhà thờ thành phố – Nhà Thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Lộ 20. Trước khi lên đường, ngài đến Tòa Giám Mục trình diện xem Đức cha có dặn dò gì thêm không. Vừa vào phòng, ngài gặp cha Khanh — Tuyên úy vùng Chương Thiện (Vị Thanh) — đang hoảng hốt giãi bày với Đức cha: “Thưa Đức cha, người ta đang tìm con, nếu con ở lại chắc con chết.” Đức cha liền nhìn cha Tự và nói: “May quá có cha Tự ở đây. Tôi đã ký bài sai cho cha Tự về Lộ 20 rồi, nhưng vì cứu cha Khanh, cha có sẵn lòng đổi để về Vị Thanh để cha Khanh về Lộ 20 không?” Cha Tự bình thản đáp: “Được thôi, nếu để cứu cha Khanh thì con sẵn sàng. Xin Đức Cha cho con lại bài sai”. Đức Cha bảo: “Thôi thôi, giờ này còn bài sai gì nữa, cha đi ngay kẻo lệnh giới nghiêm loạn lạc không đi được nữa”. Thế là cha Tự lên đường đi làm cha sở đầu tiên, đơn độc, chỉ một mình với chiếc bị cói nông dân Hai Lúa, không có ai ra đón. Cũng từ Vị Thanh này, một tháng sau ngài bị triệu đi trình diện, mang theo vỏn vẹn một ký gạo và một bộ đồ, rồi bị đưa tận ra Bắc học tập 12 năm liền, thêm 6 năm quản chế. Còn cha Khanh ở nhà thờ lộ 20 bình yên vô sự, tận hưởng tuổi già mấy chục năm cho đến lúc hưu.

V. Câu chuyện trong thời gian đen tối nhất

Ngài kể trong thời gian đen tối đó chả có gì ăn cả, lao động thì nặng, mà đồ ăn không có, thời tiết lại khắc nghiệt, đêm lạnh thì rét run, ngày nắng thì như cháy da cháy thịt, không có tự do, đủ mọi cơ cực.

....

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, người cùng ở với ngài trong thời gian đó nói rằng: Nếu Tòa Thánh cho chọn Giám Mục trong này, chúng tôi sẽ chọn linh mục Đinh Trọng Tự. Sau đây là đoạn viết về cha Tự trong cuốn sách “Tôi Phải Sống” 

Dầu vậy, xét chung, tôi phải ghi nhận là tập thể Linh mục trong đây lúc đó là một tập thể rất tốt. Đại đa số là những con người hiền hậu, rộng lượng và đầy tình bác ái. Không phải chỉ đối xử tốt trong tình thương yêu với nhau mà thôi, mà còn tốt với tất cả mọi người khác, khi điều kiện có thể giúp đỡ họ được. Tôi rất hãnh diện có mặt giữa tập thể Linh mục đó. Họ như là những chứng nhân đích thực của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em đồng số phận và cả về phía cán bộ nữa.

Lúc bấy giờ, tôi là người trẻ tuổi nhất trong số Linh mục mà phần đông là những Tuyên úy Quân đội trình diện đi học tập, chỉ có chừng 5 hoặc 7 người bị bắt vì lý do khác như tôi. Một điều tôi ghi nhớ mãi và hứa là khi nào có dịp kể lại giai đoạn này, tôi phải nói lên sự kính mến của tôi và của anh em đối với một vị Linh mục trong nhóm là cha Đinh Trọng Tự, Tuyên úy Quân đội thuộc Giáo phận Cần Thơ. Cha Tự học trên tôi 3 năm trong Đại Chủng viện Thánh Giuse tại Sài Gòn. Mặc dù trên tôi 3 lớp, nhưng cha Tự đã khá lớn tuổi vì cha đã có thời động viên đi quân dịch và mang cấp bậc Thiếu úy. Sau khi giải ngũ, ngài trở lại đi tu tiếp.

Cha Đinh Trọng Tự lúc ở Thanh Cẩm quãng 45 tuổi, người gầy ốm và cao lêu khêu như cây tre miễu, nói năng nhỏ nhẹ và ôn tồn. Sống giữa tập thể anh em Linh mục, có kẻ lớn người nhỏ, cha Tự đã tỏ ra là một người hiền hòa thân ái và được tất cả anh em kính mến. Đặc biệt là nếu có sự va chạm cãi vã nhau giữa anh em, thì chính cha Tự là người làm hết mọi cách để mang lại hòa khí giữa anh em. Thông thường, vai trò trung gian hòa giải của cha Tự đều được anh em nghe theo. Nhưng cũng có mấy lần gặp trường hợp căng thẳng quá, tôi thấy cha Tự đã phải khóc khi năn nỉ hai người đang bất hòa tha thứ cho nhau.

Tính tình nhân hậu và ôn hòa đó của cha Đinh Trọng Tự đã đóng góp rất nhiều trong sự mang lại đoàn kết và thân ái giữa tập thể anh em Linh mục. Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi thường nói với nhau, nếu Tòa Thánh cho chúng tôi chọn một Giám mục để hướng dẫn cộng đồng dân Chúa trong đây, chúng tôi sẽ chọn cha Đinh Trọng Tự”

VI. Trở lại miền Nam

Sau khi mãn hạn học tập, các cha chưa được cấp chứng minh nhân dân, nên chưa hoạt động gì. Vì thế ngài ở nhà hưu. Ngài và cha Giuse Định đi mua bộ đồ vá nồi xoong ra trước cửa nhà thờ An Thạnh vá nồi xoong cho bà con.

Có lần, một người cháu đến thăm, bắt gặp cha Tự cùng cha Định đang lom khom móc sình dưới mương cá cho quý soeur Chúa Quan Phòng. Ngạc nhiên, người cháu hỏi:

– Cha đang làm gì thế?

Cha Tự mỉm cười hiền lành đáp:

– Vét ao cá cho các bà phước, lát nữa các bà cho cá ăn.

Chỉ một câu nói đơn giản, nhưng đủ để thấy nơi ngài một tâm hồn thật mộc mạc, hồn nhiên và đơn sơ. Sau đó ngài được về ở Vị Thanh với cha sở An, là bạn cùng lớp.

Khi mới được ra trại trở về miền Nam, cán bộ kêu cha Tự đến gặp nói: “Anh thấy anh được đối xử tốt chưa ? Anh đã được khoan hồng cho rồi đó, nên anh phải lập công chuộc tội đấy. Từ đây về sau hễ ông Giám Mục nói gì hay có khách có công việc gì anh báo cáo cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ thưởng công cho anh”. Cha Tự cười mĩm tươi rói trả lời ngay: “Các anh muốn tôi báo cáo hả, được thôi, nhưng tôi nói thật cho các anh biết, tôi báo cáo gì cho các anh thì tôi cũng kể hết với Giám Mục của tôi y nguyên như vậy” ! Cán bộ đập bàn quát: “Ăn tốn bao nhiêu cơm gạo của nhà nước mà giờ vẫn chưa thuộc bài hả? “

Thật tiếu lâm, bó tay với cha luôn! Cha Tự luôn sống thẳng thắn thật thà từ đỉnh đầu tới gót chân, từ tận trong tim ra tới tận bên ngoài! Có lẽ Chúa Giêsu nói với cha Tự cũng như nói với Nathanael: “Đây đích thật là người công chính Israel không hề có điều gì gian dối”! (Ga 1,47)

Cả một thời gian dài 12 năm, cha Tự đi học tập cải tạo bặt vô âm tín, rồi khi được về thì lại bị quản chế thêm 6 năm nữa vì chưa được cấp căn cước. Công dân hạng 2 thôi. Rồi khi ra xứ sống thì sống rất đơn sơ nghèo khổ, nên chẳng ai để ý tới, cũng chẳng ai đến xin được nhận làm cha bố gì cả. Thường có lẽ người ta thích nhận cha giáo, cha to bự, cha quyền năng, cha quản hạt, cha giàu có… chứ chẳng ai chịu nhận cha nghèo. Mãi đến 2004, cha Tự mới có người con duy nhất được thụ phong linh mục, lúc đó cha đã 67 tuổi. Ngài nói: “Tôi là Abraham sinh con trong lúc tuổi già”. Ta thấy cha Tự lúc nào cũng kết hợp mật thiết với Chúa, sự kiện nào cũng liên kết được với Thánh Kinh. Người con hỏi cha rằng : Cha chọn cho con câu tâm niệm nào hay nhất để sống đời Linh Mục. Không cần suy nghĩ lâu, cha trả lời ngay : Con tin cậy vào Chúa (Speravi in Te). Có lẽ cha đã sống câu này từ lâu trong cuộc đời cha. Mà đúng thật, ai bằng Thiên Chúa?

VII. Cha sở truyền giáo

Năm 1994, Đức cha Emmanuel nói với ngài: “Cha đã khổ nhiều rồi, giờ cha muốn đi xứ nào cũng được, làm gì cũng được”. Cha Tự khiêm tốn thưa: “Sức con nhỏ bé, xin Đức cha cho con xứ nhỏ nhỏ thôi và có truyền giáo”. Thế là Đức cha đưa ngài về Rạch Súc, một giáo điểm chừng vài chục người lúc bấy giờ, và phải qua đò mới tới được xứ này.

Khi về Rạch Súc, giáo điểm nhỏ xíu. Giáo dân cũng nguôi lạnh và nửa vời nhiều lắm, nên họ cũng chẳng hiểu biết gì, toàn sống theo cảm tính. Một số người có vẻ không muốn cha Tự về đó. Họ rêu rao là ông Tự là CIA đấy, đi tù mà, ổng mà về đây tui cho ổng uống cafe muối cho biết tay. Quả thật, ngày cha Tự về nhận xứ xách theo cái giỏ cói với vài bộ đồ bên trong. Ngồi bàn khách uống nước với cha Anton Văn là quản hạt lúc bấy giờ, các ly café của mấy cha khác thì không sao, riêng ly café của cha Tự uống vào mặn chát, cha Tự giật mình bảo: “Café sao mặn thế”?, Họ đứng ngoài cửa sổ cười ha hả chả cheo: “Cafe pha muối mà không mặn, ai cho ông về đây”? Cha chỉ cười nhẹ và im lặng. Đôi khi im lặng có giá trị hơn lời nói, đôi khi nụ cười của thánh nhân người phàm không thể chạm tới được. Thánh giá đeo bám cha suốt trong tù, thánh giá lại đeo bám cha tới chỗ nơi đây. Xưa quân dữ cho Chúa Giêsu nếm giấm chua trên thập giá, đỉnh cao của ơn cứu độ, nay giáo dân pha cafe pha muối mặn cho cha uống trong ngày đầu nhận xứ, khởi đầu một thời kỳ mới như thế sao? Có linh mục nào rơi vào hoàn cảnh như cha ? Đúng là bậc Thánh nhân không bao giờ hết đau khổ!

Ở Rạch Súc hôm trước hôm sau có người bên sông chạy qua xin: “Ông cố ơi mẹ con 80 tuổi có đạo và bỏ đạo đã lâu, nay đang hấp hối, mẹ con nói muốn gặp ông cố”. Cha Tự liền qua ngay xức dầu cho bà cụ, ngày hôm sau bà qua đời. Cha nói rằng đây chắc là ý Chúa muốn mình truyền giáo.

Từ đó cha nhiệt thành truyền giáo, mở rộng nhà thờ, mở thêm mấy giáo điểm Bình An, Cả Lang, Thới An Đông…Ngài làm biết bao việc bác ái, mở rộng khuôn viên, làm cầu làm đường, làm nhà tình thương, cho học bổng, tạo nghề may đan lát, làm sân phơi lúa, giúp tiền mua thuốc sâu làm mùa màng, cho tiền đi khám bệnh trị bệnh, mở phòng thuốc miễn phí Đông Tây Y, mở các lớp dạy hè thiện nguyện cả ngàn học sinh theo học bất kể lương giáo…. không thể nào kể hết việc cha làm.

Ngài xin lại miếng đất xưa nhà nước mượn, và ngài cất mái nhà lá nơi đó để làm lễ (nay là giáo xứ Bình An). Mỗi chiều 3 lần trong tuần ngài đạp xe đạp vào giáo điểm đó làm lễ. Trời thì tối, đường thì nhỏ, đất thì trơn trượt, mưa lại rơi…thế là ngài đã 3 lần lộn cổ xuống sông cả người lẫn xe đạp (chi tiết này làm ta nhớ Chúa Giêsu vác thánh giá 3 lần ngã xuống đất).

Điều đặc biệt là đi đâu ngài cũng có bong bóng trong túi, ngài nhìn thấy trẻ em là lại cho bong bóng. Nên các em rất thích ngài, cứ canh giờ ngài đi qua là chạy ra đón đường kêu to: ông cố ông cố cho con bong bóng. Ngài bảo truyền giáo là chơi làm quen với trẻ em trước, sau đó các em sẽ giới thiệu mình cho bố mẹ nó, rồi hỏi thăm làm quen và giới thiệu Chúa cho họ.

Cũng vì truyền giáo mà ngài bị hiểu lầm, mang nhiều nỗi oan trái, thậm chí việc truyền giáo của ngài cũng gặp không ít cản trở với đủ lý do. Cũng vì truyền giáo mà cha bị những kẻ chỉ đáng tuổi hàng con cháu cha, nhưng ỷ quyền cậy thế, dám mạt sát thẳng mặt cha, kết tội cha đủ điều…Sau khi bị la mắng, trở về nhà xứ, cha buồn bã nghẹn ngào chia sẻ: “Ông đó chưa đáng tuổi học trò tôi nữa, mà dám chửi rủa kết tội tôi cả buổi trời”… Cha nói mà lòng đau như cắt, nước mắt cha như chực tuôn trào. Trưa hôm đó cha không ăn nổi một hột cơm. Còn đau khổ nào hơn khi mình sống hết lòng nhưng bị phản bội!

Về vấn đề khác, có một lần cha Tự tâm sự. “Tôi làm bao nhiêu công trình, nhưng tôi không bao giờ dám ngửa tay xin Đức Cha một xu. Vì tôi nghĩ rằng Đức Cha như cha mẹ trong gia đình, có nhiều con cái, mà Cần Thơ là giáo phận nghèo, lại còn đông con nữa, cha mẹ phải lo nhiều, nên thôi để Đức Cha lo cho các cha khác. Mình là con cái không giúp gì được cho cha mẹ thì thôi, chứ ai lại làm phiền đến cha mẹ”. Cha Tự đúng là đấng thánh thật sự. Luôn biết nghĩ cho người khác, không dám làm phiền ai, kể cả Đức Cha.

VIII. Linh mục đạo đức

Điều đặc biệt ngài luôn chầu Thánh Thể mỗi sáng, Các Giờ Kinh Phụng Vụ không bao giờ bỏ, trưa nào cũng viếng Chúa đúng giờ và luôn lần chuỗi Đức Mẹ. Ngài có lòng yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt, tổ chức hành hương Đức Mẹ…Ngài nói tôi mồ côi mẹ từ nhỏ, nên chọn Mẹ làm mẹ của tôi. Đi đâu tôi cũng đến chào “Thưa mẹ con đi”, khi về tôi lại đến chào “Thưa mẹ con mới về”…

Ngài luôn yêu thương và bảo vệ các cha, các soeur và giáo dân, luôn tạo sự hiệp nhất và yêu thương. Ngài chịu đựng tất cả, luôn im lặng nhẫn nhục và cầu nguyện cho người khác, không bao giờ la hét, nóng nảy, giận hơn hay trách móc nói xấu người khác. Ngài bảo: không ai chịu nhận lỗi mình đâu, chỉ cầu nguyện để Chúa biến đổi họ thôi. 

Có một điều đặc biệt nữa là ngài không bao giờ trả thù hay nói xấu ai. Ai nói gì ngài chỉ im lặng. Cha Gs Lê Ngọc Ngà, lúc đó làm thầy giúp xứ cho ngài kể: “Ngài bị tu đày khổ vậy mà chưa bao giờ nghe ngài mở miệng nói xấu  chính quyền hay cán bộ –Thật đúng cha là thánh sống” : Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm (Lời kinh Hòa Bình)

Có lần có người đến méc với cha Tự rằng một linh mục hay một thầy nào đó trong anh em đã đi ăn nhậu chỗ này chỗ kia. Cha lắng nghe rồi ôn tồn hỏi lại:

– Ông có hình ảnh không? Ông có bằng chứng rõ ràng không thì tôi mới tin.

Thực ra, cha nói vậy là để bênh đỡ, bảo vệ danh dự cho người anh em mình. Cha Tự luôn sống tình nghĩa, chọn cách che chở thay vì xét đoán, để anh em được an toàn trong tình huynh đệ.

Ngài hy sinh từng chút một. Ở phòng bằng gỗ nhỏ hẹp, nóng bức, giường ngủ gẫy chân phải kê gạch, chiếu rách thì cha mua chiếu khác chồng lên, cứ thế mà nằm, sử dụng nhà vệ sinh chung với mọi người, ăn uống rất ít, không bao giờ đi ăn nhà hàng hay quán xá gì, quần áo chỉ mặc đồ cũ và một hai bộ pijama là đủ…ngài lúc nào cũng ăn uống kham khổ, nên người ốm tong teo cao lêu khêu như cây tre miễu. Nên ngài tự nhận mình là “Hai Lúa” siêu mỏng, nhà quê thứ thiệt. 

Ngài luôn là người nhận lỗi dù không có lỗi. Có lần một vị linh mục trẻ kia trách ngài là để cha phó làm lễ nhà thờ lớn cực khổ, còn ngài vào nhà thờ nhỏ sướng. Ngài nhận là ngài sơ sót. Đức cha bảo vị trẻ ấy rằng cha không biết gì hết à, cha sở nhường cho cha làm lễ chỗ lớn là quá tốt với cha rồi đó. Có lần vị khác bảo là ngài ăn cơm cực quá ăn chung không nổi, ngài cũng sẵn sàng nhận lỗi để vị ấy ăn riêng thỏa ý…

Có lần thầy giúp xứ (bây giờ là cha Đôminicô Nguyễn Trung Trực) thấy cha cầu nguyện rất sốt sắng và lâu giờ. Thầy ngạc nhiên không hiểu sao mà cha ngồi lâu trước Chúa vậy được. Thầy nói: “Cha ơi, mỗi ngày cha cầu nguyện gì mà lâu thế, Cha nói gì vậy”? Cha Tự trả lời: “Có nói gì đâu, Chỉ ngồi đó ngắm Chúa và xin có một điều đó là xin Chúa cho tôi lòng yêu mến Chúa nồng nàn để tôi có thể chia sẻ tình yêu đó cho mọi người”.


Có lần có người làm rơi tiền ở đâu đó, bảo là rơi trong nhà xứ, về vợ la quá trời, ngài bảo cứ lấy tiền ra đưa cho họ và nói là lượm được rồi nè, để cho gia đình người ta hết cãi nhau. 

Giáo dân sau này ít đi lễ vì thời cuộc, hoàn cảnh đổi thay, ngài buồn và không biết làm sao nên nói rằng: anh chị em cứ chửi rủa tôi, trách tôi sao cũng được, tôi chịu được hết, nhưng xin đừng bỏ Chúa, đừng bỏ đi lễ…

Đôi khi cha chia sẻ một vài suy nghĩ:

– Ông làm bác ái thì cứ làm thôi, ai nghèo thì ông cứ cho, chứ bắt người ta đi lễ rồi mới cho thì khó lắm đấy.

– Ông có làm cho người ta 1000 điều tốt, mà sau đó chỉ 1 điều không vừa lòng họ, là họ lập tức quên 1000 điều tốt kia, và nhớ mãi điều ông làm phật ý họ.

– Ông đừng bao giờ nói tội ai, vì không ai chịu nhận lỗi mình đâu, ông mà kết tội họ là họ quay qua chống ông liền. Chỉ im lặng cầu nguyện tới thời tới buổi thì Chúa biến đổi họ thôi.

– Ông hay quá he, ông nhìn sơ qua là thấy tội lỗi người ta liền, còn tôi chẳng thấy tội lỗi của ai bao giờ.

– Ông chỉ có quyền yêu thương người ta, nhưng ông không có quyền đòi người ta phải yêu thương lại ông.

– Ông giúp người ta rồi nghĩ là sau này người ta đáp trả lại hả, không có đâu.

– Ông có tài giỏi mấy mà không được bề trên ủng hộ thì cả đời ông cũng chẳng làm được gì. Giáo hội này cơ cấu nặng lắm!…

– Ma quỷ không bao giờ để những người truyền giáo yên, vì nó biết mình đem lại nhiều linh hồn cho Chúa, nên nó phá ta cho đến chết…

– Cứ như mấy ông cha đó, chẳng làm gì hết, ăn xong ngồi yên thì không sao, khỏe, được tiếng là không đụng chạm nữa. Còn mình càng làm càng sai, càng làm càng có tội. Nhưng thôi, làm được gì cho Chúa cứ làm, mình làm cho Chúa chứ không làm cho ai.

– Xin thì không cho làm, mà làm thì bảo sao không xin phép. Truyền giáo khổ cực chứ có đòi xứ lớn giàu có gì đâu mà bảo giành giựt.

– Cái chính truyền giáo thì không lo, suốt ngày cứ lo lặt vặt này kia, mặc đồng phục màu gì, trang trí làm sao? Chọn thánh bổn mạng nào?…

– Giáo Hội to thế mà chả thấy cái bệnh viện, trường học, phòng khám hay trại mồ côi, dưỡng lão… Công giáo nào. Không chú trọng từ thiện bác ái, mà toàn hội họp nghi thức luật lệ này kia thôi.

….

Tương quan với nữ giới luôn được cha Tự tạo khoảng cách cẩn thận.Cha Tự không bao giờ tiếp riêng một người nữ nào. Cần gì thì phải đến gặp cha 2,3 người. Có việc gì giải quyết nhanh gọn rồi về, không tiếp lâu , không bao giờ nói đùa hay trêu ghẹo gì và nhất là cha hầu như không nhìn mặt đàn bà con gái bao giờ. Các bà hiền mẫu mà đến quét nhà là cha luôn bỏ ra khỏi phòng, không ngồi đó khi có các bà đến quét dọn. Cha bảo: “Mình phải cẩn thận tạo khoảng cách xa xa nhiều lớp bảo vệ với người nữ, như đá banh ấy mà muốn vào goal thì phải lọt qua được tiền đạo tiền vệ trung vệ hậu vệ rồi tới thủ môn nữa, cho nên ta cũng phải vậy, phải làm chỗ tiếp khách đàng hoàng, ngoài xa, rồi tới phòng khách, phòng ăn rồi mới tới phòng ngủ. Không được tiếp riêng nữ giới, và cũng kg được tiếp lâu, và nhất là chỗ tiếp khách phải công khai sáng sủa. Không bao giờ cho bất cứ ai vào phòng riêng của mình, và cửa phải luôn mở ra”. Cha bảo siêu nhiên nhưng ta cũng cần phải có cách thức tự nhiên nữa.

Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn bạn cùng lớp với cha Tự nhận xét: Cha Tự thánh thiện lắm. Có lần đi họp lớp ở Đà Lạt tới giờ chiều giải lao quay qua quay lại thấy cha Tự mất tiêu, nhìn ra xa phía chân đồi thì thấy ngài đang thổi bong bóng cho con nít.

Các Đức Cha rất yêu thương cha Tự. Cha bảo “Tôi đã sống 5 đời Giám Mục và cũng rất thân tình với ĐHY Gbt. Phạm Minh Mẫn, tôi đưa giấy gì các ngài đều ký luôn mà không cần đọc”. Thế mới thấy các ngài kính nể và tin tưởng cha Tự biết chừng nào.

Làm sao kể hết công đức và sự hy sinh chịu đựng thánh thiện của cha cố Phanxicô Xaviê Đinh Trọng Tự.


IX. Nhà hưu

Khi ở nhà hưu ngài vẫn luôn giữ đúng giờ viếng Chúa, và người ta đến xưng tội với ngài có lẽ là đông nhất trong các cha.

Ngài bảo rất thích về nhà hưu vì có anh em và về nhà hưu là đã mua vé máy bay lên thiên đàng, chỉ chờ tới giờ Đức Mẹ đến rước nữa thôi. Cha giám đốc Cường khi thấy đời sống của ngài liền xác minh rằng: nào giờ nghe tiếng thánh thiện của cha Tự, cứ tưởng giả, ai ngờ ngài thánh thật.


Ngài trút hơi thở cuối cùng trong nhẹ nhàng thanh thản và bình an của Chúa lúc 20h20 phút ngày thứ Năm 11/09/2025.

Chắc chắn Mẹ Maria giang tay đón cha nơi cửa thiên đàng và cha nói với Mẹ: Thưa Mẹ con đã về và từ nay con sẽ không bao giờ đi đâu nữa.

X.Kết thúc

Cuộc đời cha Phanxicô Xaviê Đinh Trọng Tự thật sự đặc biệt, gắn liền với muôn vàn gian khó. Những thử thách ấy không chỉ đến từ bên ngoài, mà đôi khi lại phát sinh ngay từ chính bên trong Giáo Hội. Thế nhưng, vượt lên tất cả, cha Tự vẫn giữ trọn một niềm tin kiên vững, một tình yêu nồng nàn dành cho Chúa, và một tấm lòng trung thành son sắt với Giáo Hội.

Nhìn lại hành trình đời linh mục của cha Phanxicô Xaviê Đinh Trọng Tự, ta thấy nơi ngài không chỉ là bóng dáng của một mục tử hiền lành, khiêm nhường, mà còn là một chứng nhân kiên trung giữa muôn nghịch cảnh. Từ tuổi thơ mồ côi, những năm tháng bị giam cầm, cho đến những hiểu lầm và oan trái ngay trong đời sống mục vụ truyền giáo, cha vẫn luôn sống với một tâm hồn đơn sơ, yêu thương và bao dung. Ngài không chọn con đường dễ dãi, nhưng chọn trung thành với Chúa và Giáo Hội, chọn lặng lẽ hy sinh để bảo vệ anh em và nâng đỡ những người nghèo yếu.

Ai có thể sống một đời như thế – quên mình cho tha nhân, yêu thương đến tận cùng, trung thành với Giáo Hội? Chỉ có bậc thánh nhân!.

Xin cha cầu cho chúng con!

Lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Tam nhật sau khi an táng Cha cố – 15/09/2025

Linh mục Micae Nguyễn Khắc Minh

Quý tử