BỐN THÁNH TỬ ĐẠO HẢI DƯƠNG
+ Thánh Giám mục Giêrônimô Hermosilla Liêm
+ Thánh Giám mục Valentinô Berio-Ochoa Vinh
+ Thánh Linh mục Phêrô Almato Bình
+ Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang, Thày giảng
Ngày 01 tháng 11
Thánh Giêronimô HERMOSILLA LIÊM (VỌNG)
Giám mục Dòng Đaminh (1800 - 1861)
Cột trụ giáo hội Việt Nam
Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và
can đảm nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể
(1835-61 giáo phận Đàng Trong) và đức cha Retord Liêu (1840-58, giáo phận Tây
Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó
khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nã của
ba triều vua và các Tổng đốc Nam Định, đã khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành
trách nhiệm một cách tuyệt vời.
33 năm thừa sai không một ngày yên ổn. 20 năm Giám mục chứng
kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đã chủ phong cho bốn Giám mục (Đức
cha Jimenô Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều
linh mục bản xứ, đã điều khiển giáo phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc,
đủ khả năng tách làm hai, và khi gục ngã dưới lưỡi gươm của lý hình thì theo sử
gia Rodriguez: Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một vì
sao.
Thỏa
niềm ước mong
Thánh Jeronimô Hermosilla sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đình tuy nghèo nhưng đạo đức (nước Tây Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha dòng Biển Đức và có ý định xin vào dòng này năm 15 tuổi. thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các dòng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đã đưa cậu đến dòng Thuyết Giáo và lãnh tu phục năm 19 tuổi.
Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải
giải tán, tài sản giáo hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung
thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla
đành phải rời nhà Dòng, đăng ký vào quân đội. Khi vua Fernando khôi phục lại
quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn dòng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ
đã mãi mãi lưu lại với vị tu sĩ này tính xông pha, lòng gan dạ, và đức kiên nhẫn.
Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi
Manila, thày Hermosilla và 11 người khác liền tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn
Đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 02.03 năm sau, 12 tu sĩ này đã đến
Manila quỳ phục dưới chân cha Giám Tỉnh và thưa : "Này con đây xin hãy sai
con". Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh dòng, vì 20 năm qua, tỉnh dòng chỉ
nhận được 27 người, bên cạnh con số 86 vị đã qua đời vì tuổi già. Năm 1826,
thày Hermosilla lãnh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi.
Năm 1828, cha tình nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai
Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 02.05.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ
cha chính Amandi Chiêu và sáng hôm sau cha tới trình diện Đức cha Delgado Y.
Tả sao cho xiết niềm vui của vị Giám mục. Cả giáo phận Đông
Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Hernares Minh, cha chính
Hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đã
chạy ra và vui sướng : "Vọng ! Vọng ! Ước Vọng !". Và từ đó, Vọng trở
thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla.
Sau vài tháng miệt mài học tiếng Việt, cha Vọng đã không phụ
lòng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha hòa mình rất nhanh với các tín hữu cũng
như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa
sai 30 tuổi không ngừng di chuyển thăm viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và
giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền
viết thư xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.
Danh
"Trùm Vọng" thời vua Minh Mạng
11 năm thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động
truyền giáo của dòng Đaminh trong giáo phận : Bốn năm phụ tá cha chính Amandi
Chiêu, ba năm bề trên dòng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ
năm 1838. Nhưng thực tế, những khi làm phụ tá, vì cha chính già yếu, mọi công
việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đã nâng số linh mục bản xứ lên đến 40, đủ sức
đương đầu với cơn bách hại sắp tới.
Bão tố đã thực sự bừng lên trên giáo phận Đông Đàng Ngoài từ
năm 1838, khởi từ sau các lá thư của cha Đặng Đình Viên gửi cho bốn thừa sai và
hai linh mục Việt Nam bị phát hiện. Hai Giám mục và cha Chính Hiền chịu tử đạo,
nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đổ máu vì đức tin. Cũng vì một trong sáu lá thư
gửi cho cha Vọng, nên "danh trùm Vọng" được ghi vào đầu sổ bộ truy
lùng của vua Minh Mạng và quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ngày
18.01.1839 dành một đoạn nói về cha : "Hãy còn danh trùm Vọng chưa bắt được,
dù quan truyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lãnh thưởng mười ngàn
quan tiền…"
Để giúp dân dễ nhận diện, vô tình vua Minh Mạng lại cho
chúng ta biết đôi điều về chân dung vị thừa sai này : "Người cao lớn, mũi
dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương
phi…" Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi
bước. Quả thực, trong giai đọan này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp
nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường
cơn giận dữ của "hỏa ngục". Dĩ nhiên là không phải không có những
giây phút hồi hộp, khi thì suýt bị bắt với Đức cha Y khi bị cắm đầu cắm cổ vượt
vòng vây chạy trốn. Có những lần, một mình đi giữa đêm tối trên những đoạn đường
quanh co xa lạ.
Thoát
chết trong đường tơ kẽ tóc
Chúa gìn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đã thấy cha trong phòng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện : "Xin cho ý Chúa được thể hiện …" Thế mà lính không thấy gì cả, cho đến khi họ nhìn thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát.
Lần khác, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 lính với
hàng chục chiếc thuyền bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi dông bão,
thế là quan quân hoàn toàn thất bại : hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi
dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.
Vào cuối thời vua Minh Mạng, giáo phận chịu thiệt hại đáng kể.
Trên 1.000 nhà thờ bị rỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng
viện, 40 nhà chung, 60 họ đạo, 22 nhà phước Đaminh, 3 nhà phước Mến Thánh Giá,
đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân thì bơ vơ, hai Giám mục
và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên, với sự
cộng tác của hai thừa sai, 37 cha dòng Việt và một số linh mục triều, năm 1840,
giáo phận đã rửa tội thêm 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người
và chứng hôn 1.630 đôi.
Thời
gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng
Thứ nhất về lá thư cha báo cáo về tình hình Bắc Việt cho Bề
Trên Tỉnh Dòng về sự kiên cường của các vị tử đạo và "sức sống ngầm"
của Giáo Hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thư đã làm cho cả tỉnh dòng
vui mừng. Tại nhà thờ thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đã sốt sắng hát
kinh "Te Deum" và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thư này được phổ biến khắp
nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Grêgoriô XIV viết cho Giáo Hội
Việt Nam một lá thư mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong
thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.
Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đã đến Yên Trì
được gần một năm mà không có cách nào trình diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ
(sắc Ex Quo). Lúc ấy, cha Vọng đang làm Bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp
người bề dưới tiến hành việc nghi thức này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực
tiễn.
Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn
còn xảy ra ở một vài nơi. Tòa thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông tòa thay thế
hai Đức cha Delgado Y và Henares Minh đã tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử
hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retord Liêu ẩn
trú. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai
vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Trên đường áp giải về dinh, dân
chúng kháo với nhau: "Kìa ! Đó là danh Trùm vọng !". Tổng đốc Trịnh
Quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết mình đã lầm, liền tức
giận, cho đóng cũi, tra tấn dã man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường
cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha
hai vị về (1843) (xem thêm hạnh bà Thánh Annê Đê).
Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh
Trị. Vì đã biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác.
Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng, lội suối, có khi đi thuyền nhưng
thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúc hoặc bụi
tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã cho đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có
một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch
của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần
nâu xắn lên tới dầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc
lại, đầu đội nón lá… rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng
xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.
Vị
Giám mục khôn ngoan
Đến Vĩnh Trị, cha Vọng tìm đến tòa Giám mục của Đức cha
Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân bất
ưng đến thăm. Tại đây, ngày 25.04, cha được tấn phong. Đức tân Giám mục tìm đường
trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá
cả vạn quan. Ít lâu sau, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh ngã bệnh và qua đời.
Lợi dụng tình hình lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng.
Ngày 26.6, ngài tấn phong Giám mục cho cha Jimenô Lâm làm phụ tá. Sau lễ, ngài
tập họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó
cả giáo phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ
tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác
còn bị giam giữ. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời
về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha
khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh
Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm bổn
mạng giáo phận và xin phép tòa Thánh mừng lễ hàng năm (1).
Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.
Năm 1844, ngài mở lễ kính thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể.
Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền.
Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào
duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục "Lễ Đầu Dòng"
trong giáo phận. Số tân tòng ngày càng gia tăng. Ngày 22.08.1844 tại Đông
Xuyên, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng,
tám lý trưởng, một thày cúng.
Sự phát triển ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín
hữu lên tới 184.000, Đức cha xin tòa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai
: Giáo phận Trung (nay là Bùi Chu, Thái Bình) được trao cho Đức cha Marti Gia,
còn Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư với hơn mười triệu, mà ít tín hữu,
chỉ 0,4 phần trăm. Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc
dù vua Tự Đức bắt dầu bách hại đạo. Năm 1852, giáo phận Đông Đàng Ngoài rửa tội
được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.
Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả
và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua giáo phận
Trung, hai thày giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả
ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lý xứ Hữu
Bàng, phải chuộc mất 300 quan. Năm 1858, trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ
không còn ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về
Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại
5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên
là Tuấn, để khỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân tháp ra đời.
Nỗi
đau của vị chủ chăn
Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn dòng Thuyết Giáo. Hai
cuộc tử đạo của hai Đức cha Sanjurjo An và Sampedro Xuyên, biết bao hung tin mỗi
ngày : các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thày giảng bị ngã gục. Giờ
đây chiếu chỉ phân tháp lại nhắm đến giáo dân. Ý thức bổn phận chủ chăn, ngài
liền viết thư luân lưu cho khắp giáo phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa
mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa phòng, vì "lá
cây nhỏ mọn mặc lòng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu",
khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững vàng, năng suy niệm cuộc thương
khó mà Chúa đã chịu vì nhân loại hầu được thêm can đảm.
Đêm thu 14.8 năm tân Dậu (18.9.1861), trong khung cảnh tĩnh
mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nhìn cảnh vật mà lòng xúc động
trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia
đình tín hữu bị phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ…
Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó, chủng viện Kẻ Mốt phải giải
tán, những mầm non của giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt
ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động :
"Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu
cho anh em học hành … Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. nếu
Chúa để chúng ta còn sống thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức
cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là
cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội
Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha,
kẻo ngài không cầm được nước mắt…"
Cũng đêm đó, Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở
Thọ Đức. 33 năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đã chất chứa những gánh nặng
trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đã giảm sút, râu tóc đã bạc phơ chỉ duy
đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt
nhọc trên quãng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao ?
Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ còn chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay
những kẻ đang truy nã.
Cùng đi với Đức cha có thày giảng Giuse Khang. Hai cha con
trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải
Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được
vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato Bình dọc theo
đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi,
khích lệ nhau thêm can đảm và tạ ơn Chúa vì dịp may hiếm có này. Sau đó, các vị
chia tay nhau mỗi người một nẻo.
Dưới sự tận tình che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và
thày giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vả giữa cha
con ông Trương Bính, người con trai vì tức giận cha mẹ, đã đi tố cáo ông bà về
tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia
nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng
một số tiền và nói : "Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những
người đánh cá nghèo nàn này đi". Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống
cự thì Đức cha cản lại rằng : "Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho
Thánh ý Chúa". Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.
Đồng
hành về trời
Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, ứung cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy, ngài vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù, rà rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.
Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Valentino Vinh và
cha Almato Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy.
Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nhìn nhau, nhưng lòng đầy hân
hoan, vì thấy được đoàn tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.
Ngày xử được ấn định là 01.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng
đi sau đội quân 500 người. Đức cha Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại
lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.
Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu
nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc. Bản án được đọc lên.
ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh
hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo,tranh nhau thấm máu tử đạo.
Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được
treo ở bến đò Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối)
rồi đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối
cùng, đi dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.
Đức Piô X suy tôn Đức cha Jeronimô Hermosilla Liêm lên bậc
Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển thánh.
Đức cha đã nằm xuống, nhưng chân lý ngài đã truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống mãi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.
Ngày 01 tháng 11
Thánh Valentinô BERRIO OCHOA VINH
Giám mục Dòng Đaminh (1827 - 1861)
Đẹp
như khúc tình ca
Cuộc đời thánh Valentino Vinh đẹp như một bài thơ và hùng
tráng như bản tình ca bất hủ. Quả thật, cuộc đời ngài chỉ vỏn vẹn có 34 năm với
ba năm Giám mục, không có nhiều thành quả lẫy lừng, nhưng đã là một thiên tình
ca hùng tráng… cuộc đời ấy được đan dệt bằng biết bao biến cố thăng trầm, bao kỷ
niệm gian khổ và bao thắng vượt anh hùng.
Với tinh thần đơn sơ của một người tràn đầy tình yêu Chúa và
tha nhân, ngài đã biến tất cả thành một giai điệu nên thơ. Tất cả những nỗi vất
vả đã được vị "Giám mục hầm trú" này khoác cho chiếc áo tươi vui bằng
thái độ kiên cường, bằng tình yêu nhiệt thành và sự trung tín. Ngài biến đổi
chúng bằng những phút chiêm niệm sâu xa và bằng nụ cười bất diệt.
Nỗ
lực tuổi trẻ
Valentino Berrio Ochoa xuất thân trong một gia đình quý
phái, đạo đức nhưng lại nghèo. Sinh ngày 14 tháng 2 năm 1827 tại làng Elorrico,
giáo phận Vich, nước Tây Ban Nha. Cuộc đời Valentino chịu ảnh hưởng rất nhiều của
song thân. Cậu học được nơi cha sự cần cù kiên nhẫn, và thừa hưởng nơi mẹ một đức
tin sống động, lòng sùng kính Đức Maria và tính vui tươi hòa nhã với mọi người.
Đặc biệt với thân mẫu, Valentino vẫn hằng ôm ấp mối tình thắm thiết cả khi đã
làm Giám mục mà chúng ta có thể thấy được, vẫn dạt dào trong các lá thư viết về
cho bà.
Vì thân phụ thường đóng bàn ghế cho một tu viện Đaminh trong
vùng, nên Valentino được vào giúp lễ. Nhờ vậy, cậu có dịp tiếp xúc với cha linh
hướng của tu viện, một linh mục dòng Đaminh. Khi rảnh rỗi, cậu đến gặp cha để
nghe cha kể chuyện về các vị thừa sai Đaminh tại Việt Nam, về những mẫu gương dấn
thân và những cuộc tử đạo anh hùng. Từ đó, cậu bé 12 tuổi ôm mãi trong lòng giấc
mộng vàng, là được làm linh mục Đaminh và đến phục vụ tại mảnh đất Việt yêu dấu.
Nhưng vì gia đình quá nghèo, cậu phải phấn đấu rất nhiều để biến giấc mộng ước
thành hiện thực.
Sáu năm liền, Valentino phải kết hợp ba chương trình: vừa
làm mộc giúp phụ thân, vừa trau dồi văn hóa phổ thông và xếp thêm giờ học tiếng
Latinh. Theo gương Đức Giêsu nơi xưởng mộc Nazareth xưa, cậu kiên nhẫn chờ đợi
ý Chúa được thể hiện. Năm 18 tuổi, nhờ sự gíup đỡ của một linh mục, cậu xin
phép cha mẹ gia nhập chủng viện Logrono. Tại đây, cậu được các giáo sư, các bề
trên và bạn bè quý mến. Mọi người ghi nhận nơi chàng thanh niên này tính chăm
chỉ học hành, một nếp sống đạo đức sau xa, khổ chế với chính mình nhưng lại
tươi vui với mọi người. Đức Giám mục giáo phận, khi kinh lý làng Elorrio ghé
thăm gia đình anh, đã nói với thân mẫu rằng : "Bà Maria ơi, có lẽ con bà sẽ
làm đến Giám mục".
Sau ba năm triết học với thành quả mỹ mãn, hè năm 1848, thày
Valentino về thăm gia đình, và thấy cha mẹ già yếu quá vất vả với công việc,
thày trở lại xin bề trên được sống ngoại trú, để vừa đi học thần học, vừa có thể
phụ giúp gia đình 30 tháng.
Hơn hai năm rưỡi đã trôi qua như thế, mãi tới khi theo lời đề
nghị của một cha giáo sư, Đức Giám mục cho thày lãnh chức cắt tóc và đặt thày
làm linh hướng dự khuyết của chủng viện. Đây là trường hợp rất họa hiếm nói lên
uy tín của thày, tuy còn là sinh viên mà đã được chọn vào một trách vụ thường
dành cho những vị linh mục lão thành đạo đức, nhiều kinh nghiệm.
Vị
linh hướng đạo đức
Lòng tín nhiệm thày Valentino của Đức cha Irigoyen ngày càng
rõ rệt hơn, khi người lần lượt trao ban chức năm, chức sáu và linh mục cho thày
chỉ trong một năm (1851). Valentino đã chuẩn bị xứng đáng, và trong niềm hân
hoan khôn tả, vị tân linh mục đã viết thư cho thân thân mẫu như sau : "Mẹ
yêu dấu của con, hôm qua, ngày 14.08.1851, ngày mộng ước, ngày con được thụ
phong linh mục… Con của mẹ giờ đây đã được tình thương Chúa nhắc lên phẩm chất
cao cả, đến nỗi các thiên thần cũng phải run sợ…" (thư 16).
Hơn hai năm tận tụy với chức vụ linh hướng đại chủng viện,
cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng vàng thuở thơ ấu. Sau khi bàn hỏi với cha
linh hướng dòng Tên tại Loyola, cha xin phép Giám mục qua dòng Đaminh. Lúc giã
từ người quen, có người hỏi cha: "Cha đi đâu, và bao giờ trở lại?".
Cha đáp: "Tôi đi để quê tôi có người làm Thánh". Và cha đã khởi sự
quyết định nên thánh đó bằng thái độ từ bỏ dứt khoát : đường từ nhà đến tu viện
Ocanã độ ba bốn ngày đường, cha quyết định đi bộ, không giày dép, không tiền bạc.
Hành trang duy nhất là cuốn sách nguyện. Sau có người thấy tội nghiệp, tìm cách
ép mời cha đi xe ngựa vài đoạn đường.
Ocanã, một học viện của tỉnh dòng Mân Côi từ năm 1830, nơi
đã đào tạo hai Đức cha An và Xuyên, khi đó đang làm Giám mục chánh và phó giáo
phận Trung Đàng Ngoài, đã rộng cửa đón vị linh mục linh hướng nổi tiếng, trao
tu phục và sau một năm tập như thường lệ, đã cho cha khấn trọng ngày
12.01.1854.
Ba năm sau, cha tiếp tục giấc mộng thời niên thiếu, nên qua
trụ sở tỉnh dòng ở Manila để tìm đường đến Việt Nam. Sáu tháng lênh đênh trên
biển cả, chiếc tàu của cha Valentino gồm các thừa sai của ba dòng tu Đaminh,
Phanxicô và Augustino. Các vị tổ chức đời sống như một tu viện. Qua thư, cha
Valentino thuật lại : các vị cùng nhau dâng lễ, đọc kinh nguyện mỗi ngày. Dịp
Tuần Thánh, các vị cũng tổ chức nghi lễ rửa chân, suy niệm Đàng Thánh Giá, bắn
pháo bông mừng Phục sinh và tổ chức việc suy niệm Đức Mẹ trong tháng Hoa nữa.
Ngày 17.06.1857, cha đến Manila trong niềm vui của các anh
em dòng tại đây. Anh em ra đón cha tại bến tàu, rồi đưa về thánh dường hát kinh
TE DEUM và tạ ơn Đức Mẹ trước bàn thờ Mân Côi.
Biến
ưu sầu thành khúc ca vui
Ngày 30.03.1858, cùng với cha Riaño Hòa và cha Carreras Hiển,
cha Berrio Ochoa đặt chân lên đất Việt Nam, đến trình diện cha chính Nam và Đức
cha Xuyên tại Kiên Lao. Cơn bách hại đang ở cao điểm : Đức cha An mới bị tử đạo
được tám tháng, thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá vàng, nên thường xuyên
ngài phải ẩn nấp.
Trong thư 93 gửi về gia đình, cha Vinh đã ghi nhận :
"Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một ngày quang đãng, không ngày
nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi. Không ngày nào không có đau thương để
khóc, không có lo toan để tìm phương bổ cứu, không có kẻ lạ mặt theo dõi hay
quan quân truy lùng".
Sườn núi Canvê trơn dốc của cha Vinh đã bắt đầu. Tại đây tất
cả đều còn lạ lẫm : Ngôn ngữ, tập quán, đường đi, con người và bao nhiêu thứ phải
làm quen, phải học. Thế mà chỉ mới mấy ngày sau khi chào vị chủ chăn giáo phận,
vì tình hình an ninh, mỗi vị phải chia tay nhau ẩn náu mỗi người một phương.
Tuy mới chân ướt chân ráo đến vùng truyền giáo, cha Vinh phải vận dụng sự khôn
ngoan sáng tạo để hoàn thành những công tác mục vụ, thăm viếng. Tất cả mọi việc
đều phải lén lút.
Hai tháng rưỡi trôi qua, tuy tiếng Việt nói chưa thông,
nhưng tài năng và nhân đức của vị linh mục trẻ tuổi này đã được khẳng định. Đức
cha Sampedro Xuyên, trước nguy cơ có thể bị bắt, đã chuẩn bị cho tương lai của
giáo phận, ngài dùng quyền Tòa Thánh để chọn một Giám mục phó có quyền kế vị.
Ngài đã chọn cha Berrio Ochoa Vinh. Đây là tâm sự của vị được tiến chức :
"Thưa Đức cha, nếu được thì xin cất chén đó cho con…
Con thấy lòng tràn ngập lo lắng, áy náy khi nghĩ đến địa vị mà Đức cha muốn đặt
con lên. nhưng điều mà môi miệng con nói thì con cũng xin nói cả tấm lòng, đó
là xin vâng trọn ý Chúa, bây giờ và đời đời chẳng cùng".
Giám
mục "gậy tre mũ giấy"
Lễ tấn phong Giám mục Valentino Vinh, quả thực có một không
hai trong lịch sử Giáo hội. Đêm 25 rạng ngày 26.06.1858, Đức cha Xuyên cử hành
lễ tấn phong trong nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường. Lễ nghi được tiến hành âm thầm
giữa đêm thâu, không một tiếng hát, không một người tham dự. Hai cha Riano Hòa
và Carreas Hiển là phụ phong, bao tay, vớ tất không có, mũ ngọc của tân Giám mục
làm bằng giấy bìa cứng cũng phủ giấy tráng kim, gậy ngọc là một cây nứa, đầu gậy
cuốn bằng rơm cũng được bọc giấy tráng kim. Việc chuẩn bị cho ngày lễ, chúng ta
hãy nghe ngài thuật lại trong thư gửi cho cha Orge ở Manila.
"Con thú thật rằng, con muốn thoát khỏi vòng ràng buộc
này. Nhưng biết bao lần Đức cha đã bảo con, nên theo lương tâm, buộc con phải
vui nhận việc tuyển chọn… Con không dám cưỡng ý Chúa đã rõ rệt. Sau ngày được
tuyển chọn, con chỉ còn vừa đủ thì giờ để cấm phòng. Con lắng nghe Ngài phán
trong thinh lặng, không có lấy một cuốn sách nào giúp tĩnh tâm, mà có tìm cũng
không ra … Không phải chỉ thiếu sách cấm phòng, nhưng chiều áp lễ tấn phong, thấy
rằng chỉ có độ một nửa khăn áo cần dùng trong nghi lễ, Đức Giám mục đại diện
Tông tòa và con phải vội vàng hai tay kim chỉ đóng vai thợ may. Tạ ơn Chúa, tới
đúng giờ đã định, chúng con cũng có ít khăn áo xứng đáng…" (Thư 79).
Nếu thánh Phaolô xưa tự nhận mình là tông đồ sinh non, vị
tân Giám mục cũng tự nhận là Giám mục sinh non, sinh thiếu tháng. Chưa đầy ba
tháng trên đất Việt với số tuổi 31, thế mà giờ đây phải quan tâm săn sóc một
giáo phận trên 150 ngàn giáo hữu giữa cơn cuồng phong bách hại ác liệt nhất.
lúc này đây, ngoài Chúa ra, ai có thể cảm thông được nỗi ưu tư của ngài ?
Sau ngày tấn phong, hai Đức cha và hai linh mục lên xứ Quần
Cống. Được ít hôm, quan án sát Nam Định đến bao vây làng này, khiến mỗi vị phải
đi một ngả. Đức cha Vinh phải chạy sang Trà Lũ, Đức cha Xuyên qua làng Thôn
Đông, rồi đến Kiên Lao thì bị bắt ngày 08.07, và bị xử lăng trì ngày
28.07.1858. Từ nay, Đức cha Vinh phải một mình lãnh trách nhiệm toàn giáo phận
Trung. Theo ý vị tiềm nhiệm, Đức cha bỏ giáo phận trốn qua tỉnh Hải Dương, là
nơi cuộc bách hại còn lắng dịu. Sau bốn ngày vượt sông băng lạch, ngài đến Cao
Xá, tỉnh Hưng Yên, rồi tới nơi Đức cha Hermosilla Liêm và cha Almato Bình trú ẩn.
Được ít lâu, ngài đã tìm được nơi trú ẩn mới trong vườn nhà anh Thăng, làng
Hương La, xứ Tử Nê (Bắc Ninh). Gia chủ đã đào cho ngài một hầm trú ẩn khá an
toàn. Chính tại hầm này, vị "Giám mục hầm trú" đã thành lập Tòa Giám
mục trong gần trọn đời Giám mục của ngài.
Giám
mục hầm trú
Khi nghe tin Đức cha Xuyên tử đạo, dầu kiên nhẫn và bình
tĩnh, Đức cha Vinh đã phải phát biểu nửa đùa nửa thật rằng : "Đức Giám mục
khả kính Sampedro Xuyên để lại cho tôi một gánh quá nặng. Ngày nào tôi nhoai đến
thiên cung, tôi sẽ tố cáo ngài".
Trong thư gửi cho một linh mục bạn, ngài viết : "Tôi
còng lưng gánh một gánh mà tôi sợ, rất sợ, sợ đổ vỡ dọc đường…". Sau đó, Đức
cha tìm mọi cách trở về với giáo phận, nhưng không thể được, vì cơn bách hại tại
giáo phận Trung quá khắc nghiệt.
Theo cha M. Gispert, có một lần duy nhất trong đời Giám mục,
Đức cha Vinh về xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung. Nơi đây, cùng với cha Riano
Hòa, hai vị tuyên thệ xây cất một Thánh đường dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, và nhận
người làm bổn mạng của giáo phận, nếu Chúa ban cho Giáo Hội thoát khỏi cơn bách
hại và hưởng thái bình. Lời tuyên thệ này về sau, khi cha Hòa làm Giám mục, đã thực
hiện. Đó là thánh đường sau ba lần tái thiết, nay là một thánh đường kiểu
Gothique nguy nga dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Phú Nhai.
Trở lại vị Giám mục hầm trú tại Hương La. Sáu tháng đầu,
ngài sống chung với Đức cha Alcazar Hy, Đức cha phó giáo phận Đông, cho đến khi
vị này phải rời xứ truyền giáo tạm lánh qua Macao. Chính tại hầm trú này, Đức
cha điều hành giáo phận gần trọn ba năm. Nơi đây, ngài sống như một ẩn sĩ,
nhưng vẫn là linh hồn của giáo phận Trung. Sinh hoạt thường ngày của ngài là cầu
nguyện, hy sinh, viết thư cho các linh mục và các giáo xứ bên giáo phận. Hỗ trợ
Đức cha có bốn đại chủng sinh và ông lang Thư, người Cao Xá, trong việc sao
chép thư luân lưu, cũng như việc liên lạc.
Thật đáng khâm phục, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như thế, Đức
cha vẫn hướng về ánh sáng cuối đường hầm, vẫn nhìn trời xanh qua kẽ lá, vẫn chuẩn
bị cho Giáo Hội tương lai trong hòan cảnh tưởng như tuyệt vọng này. Trong hầm
trú, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn, dạy thần học cho một chủng sinh, huấn luyện
các linh mục tương lai. Để ôn thêm và để việc huấn luyện được đầy đủ, giữa
khung cảnh bão táp ấy, ngài viết thư cho cha quản lý ở Macao, xin gởi cho cha bộ
Tổng luận Thần học, bộ Contra Gentiles của thánh Tôma và nhất là bộ Giáo Luật.
Ba năm trải qua như thế. Tất cả ở dưới hầm trú, trừ đôi lần
giữa đêm, ngài ra khỏi đó để thăm và xưng tội với Đức cha Liêm, hoặc đi giúp
các bệnh nhân, nhưng không vượt ra khỏi ranh giới hai làng Đức Trai và Tử Nê. Một
vài lần, ngài phải cuốn gói chạy trốn qua một hầm khác để tiếp tục ẩn nấp. Thực
tả sao cho xiết nỗi cơ cực và nỗi khổ ngài chịu. Cơ cực vì hầm chật chội, ngột
ngạt, ăn uống thiếu thốn … Khổ tâm vì không thể về với giáo phận mình, trong
khi cơn bách hại ngày càng gia tăng. Các hung tin được loan báo tới tấp : Một,
hai … rồi 18 linh mục tử đạo, các thày giảng và biết bao giáo hữu bị ngã gục vì
đức tin chân chính. Trong một thư gửi cho Thánh Bộ Truyền Giáo, Đức cha viết:
"Rất có thể trong ít tháng nữa, giáo phận của tôi chẳng
còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thày giảng và không
biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo" (Thư 93).
Vui
tuơi và xả hỷ
Tuy sống gian khổ như thế, Đức cha Vinh đã không một lời rên
rỉ, không một tiếng thở than. Cái "chương trình" thánh thiện trong
vui tươi của anh chủng sinh vừa học vừa làm thời niên thiếu, giờ dây ngài vẫn
trung thành thực hiện. Ta có thể thấy điều đó trong một thư gửi cho thân mẫu
vào tháng 08.1860 :
"Mẹ chí yêu lòng con,
"Mẹ hỏi con sống thế nào, ăn uống làm sao ? Mẹ quý mến của con ơi ! Con sống tươi lắm, con làm Giám mục cơ mà ! Còn thức ăn ngày nào cũng có. Đừng lo mẹ ạ, chúng con chẳng đói đâu. Nhưng mẹ tưởng hễ làm Giám mục là phải ngồi ngựa à ? Không, chúng con tuột giầy ra giữa đêm hôm tăm tối, nhoài hết chỗ lội này đến quãng lội khác, vậy mà cứ vui thôi. Một hôm, con lội sáu dặm đường, trên mưa tuôn, dưới bùn trơn, con ngã soành soạch không biết bao nhiêu lần. Tuy là Giám mục, con cũng ướt như chuột và lấm bùn be bét. Nhưng giáo hữu ở đây tốt lắm, về tới nhà đã thấy họ đổ nước cho con tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dâng lễ…
"Ồ có lẽ mẹ bảo : Vinh nhỏ của mẹ ơi, sống thế xìu lắm ! Không, chả buồn chả xìu chút nào mẹ ạ. Ở đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong lao nhọc. Con tuy là "trai già" mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy. Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi thì nay bộ mặt đầy râu của nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ…" (Thư 116).
Quả thực, phải có tâm hồn tươi trẻ và siêu nhiên mới có được
thái độ và lời lẽ như vậy, vừa dí dỏm vừa tươi vui pha chút đùa bỡn nữa. Những
lá thư như thế phản ảnh được sự bỏ mình và nét tươi trẻ của vị Giám mục tử đạo
34 tuổi xuân này. Thực là cái vui của các vị thánh, của những tâm hồn đầy Chúa.
Chẳng bao lâu nữa, vẫn với niềm vui tươi và tính đơn sơ phó thác ấy, ngài giơ đầu
đón nhát gươm lý hình, và trên khuôn mặt đẫm máu đào của ngài, còn ánh lên nét
tươi vui.
Tháng 8.1861, chiếu chỉ phân sáp của vua Tự Đức như một cơn
hồng thủy tràn lan mọi thị xã cũng như thôn quê. Làng Hương La cũng không thể
yên ổn được nữa. Đức cha Vinh liền xuống thuyền với linh mục Almato Bình, xuôi
dòng xuống Hải Dương. Tại đây, may mắn hai vị gặp Đức cha Liêm và thày Khang
đang ở trên một thuyền khác trong bầu không khí thân mật và cảm động. Nhưng sau
đó, thuyền ngài lại phải tiếp tục cuộc hành trình. Các giáo hữu giới thiệu hai
vị trọ nhà một người ngoại giáo làm phó lý ở gần đó. Không ngờ cháu ông này đi
báo với quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25.10.1861 và bị đóng cũi giải về Hải
Dương. Tại đây, hai vị gặp Đức cha Liêm trong một cũi khác, ngài đã bị bắt trước
đó năm ngày.
Ngày 01.11.1861, ba vị thừa sai cùng bị đem đi xử. Quân lính
áp giải đông như đi rước. Cũi Đức cha Vinh đi giữa hai vị kia. Ngài bình tĩnh
ngồi cầu nguyện như thói quen, nét mặt tươi tỉnh khiến mọi người phải ngạc
nhiên. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện, lý hình đã chém đầu các
ngài theo hiệu chiêng trống. Thi thể ba vị tử đạo được chôn tại đó, sau được cải
về Thọ Ninh, rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiển, thi thể Đức cha Vinh được gởi về
Macao, và sau cùng được đem về quê hương của ngài.
Đức Piô X đã suy tôn Giám mục Valentino Berrio Ochoa Vinh
lên bậc Chân phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy
tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Ngày 01 tháng 11
Thánh Phêrô ALMATÔ BÌNH
Linh mục dòng Đaminh (1831 - 1861)
Xâu chuỗi và thanh gươm
Chân dung của thánh Almatô Bình được phác họa dưới hình một
tu sĩ Đaminh có vầng trán rộng của sự thông minh, với bộ râu của người nghị lực.
Cặp mắt ngài đăm đăm nhìn xuống đôi tay: tay phải cầm ngành lá vạn tuế, một chuỗi Mân côi và một thanh đao to bản, tay trái khẽ nâng cao mũi dao, với ngón tay
cái đang chạm vào lưỡi, như muốn thử nó sắc cỡ nào, trên môi hé nở một nụ cười.
Bức chân dung ấy nói lên hai đặc điểm của vị thánh : Tín nhiệm
vào Đức Maria và suốt đời trân trọng vào phúc tử đạo, không đâm đầu tìm cái
chết, nhưng vui tươi đón nhận nó.
Nụ
hoa kết trái
Phêrô Almatô chào đời vào lễ Các Thánh 01.11.1831 tại làng
Santo Felice Saserra, xứ Vich, miền Cataluna nước Tây Ban Nha. Thân phụ cậu là
ông Salvio Almatô làm nghề y sĩ và thân mẫu là bà Antinia. Cậu có một người bác
là linh mục kinh sĩ phụ trách giải tội cho khắp giáo phận và người em gái sau
cũng đi tu.
Từ thơ ấu, cậu Almatô đã có những dấu hiệu hâm mộ đời tu
trì. Khi ngồi một mình, cậu thích xếp hình các nhà thờ hoặc bắt trước các linh
mục dâng lễ. Thỉnh thoảng cậu tập họp các trẻ nhỏ tuổi hơn để cùng đọc kinh Mân
Côi, hoặc kể chuyện giáo lý cho chúng nghe.
Năm 15 tuổi, gia đình cho cậu vào chủng viện. Tại đây,
Almatô có cơ hội đọc các bản tin về truyền giáo của tỉnh dòng Đaminh Mân Côi tại
Viễn Đông. Từ đó, khát vọng truyền giáo luôn sục sôi trong lòng anh. Khi được
Giám mục Claret khuyến khích, anh quyết định giã từ bạn bè và gia đình để đến
Ocanã xin vào dòng Đaminh. Sau thời gian thử thách, ngày 25.09.1847, anh được
lãnh tu phục vào tập viện, và ngày 26.09.1848, thày tuyên khấn.
Tháng 09.1849, thày Almatô đến Manila tiếp tục học thần học.
Ngoài những giờ miệt mài học tập, thày thích tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện
và đọc sách thiêng liêng. Năm 1854, thày được thụ phong linh mục và năm sau được
phái đến phục vụ tại Việt Nam.
Ngày 04.08.1855, cha Almatô đến giáo phận Đông Đàng Ngoài.
Khó
khăn và nghị lực
Khi mới đến Việt Nam, cha Almatô nhận tên là Bình, ở lại Nam
Am và Đông Xuyên. Sau đó cha về chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Việt với cha
Gaspar Nghĩa, rồi được cử đi phụ trách xứ Thiết Nham hơn một năm. Tình trạng sức
khỏe của cha Almatô Bình thật yếu kém, cha bị bệnh thường xuyên. Nhưng bên
trong thân xác yếu đuối đó là một khối nghị lực tưởng chừng như vô tận, đủ sức
đưa cha vượt mọi khó khăn thử thách của môi trường truyền giáo.
Từ năm 1857, cuộc bách hại ngày càng khốc liệt, cha Bình bó
buộc phải nay đây mai đó, ít khi được yên ổn. Ban ngày phải trốn trong hầm ẩm
thấp, ban đêm mới ra ngoài, đi thuyền lẻn đến phục vụ giáo hữu hai bên sông. Những
hôm nào bị bao vây bất ngờ, cha phải ngủ trong bụi rậm, bụi tre hoặc phải băng
sông lội suối dưới trời mưa lạnh giá. Bệnh hoạn, đói rách và nguy cơ bị bắt,
như ba tai họa thường xuyên của cha, nhưng vị tông đồ của Chúa đã thắng vượt được
tất cả nhờ chí khí can trường và tinh thần hăng say của tuổi trẻ. Khi tình hình
cấm đạo trở lên gay gắt hơn, các thừa sai Đaminh quyết định chia một nửa tạm
lánh sang Macao, cha Bình tình nguyện xin ở lại Việt Nam.
Trong một thư gửi cho gia đình cha viết :
"Con và một linh mục nữa đã ẩn mình bẩy, tám tháng nay
trong một nhà có sẵn hang ở dưới lòng đất để núp khi quan quân vây bắt. Nhưng
nay mai nếu cha mẹ có nghe tin con bị bắt thì xin cha mẹ đừng khóc làm chi. Hãy
vui mừng con được phúc trọng dường ấy".
Từ tháng 08.1861, dưới ảnh hưởng của chiếu chỉ phân sáp,
hàng giáo sĩ dường như không thể tìm được chỗ nào an toàn để ẩn náu. Cha Almatô
Bình trước đã rời Thiết Nham sang Kẻ Nê rồi ẩn ở Thọ Ninh, nay lại xuống thuyền
đi với Đức cha Valentino Vinh xuôi theo dòng sông Thái Bình. Đến Hải Dương, hai
vị gặp Đức cha Hermosilla Liêm và thày giảng Giuse Khang. Ngày 20.10.1861, khi
Đức cha Liêm và thày giảng Giuse Khang bị bắt, thì cha Bình và Đức cha Vinh
cũng đang ở trên một thuyền khác, nhưng may mắn đã chạy thoát được.
Sau biến cố đó, hai vị thấy trốn trên thuyền không yên ổn nữa,
nên khi một giáo hữu là ông Cựu Trọng giới thiệu hai vị tới trọ tại một người
ngoại giáo là ông lang Thửa, hai vị đã đến đó và được tiếp đón niềm nở. Tuy
nhiên người cháu của ông lang là Khán Cáp, khi biết tin này, liền báo với quan
để lãnh thưởng. Để khỏi mang tiếng xấu, anh ta mời các vị thừa sai đi ẩn chỗ
khác, rồi dẫn hai vị ra đồng ruộng cho quan huyện Thanh Hà đến bắt. Hôm đó là
ngày 25.10.1861.
Phúc
trường sinh
Quan Tổng đốc Hải Dương là Nguyễn Quốc Cẩm thấy các giáo sĩ
Tây có dáng vẻ hiền lành nên không đành tâm đối xử tàn nhẫn. Ông chỉ điều tra
qua loa về tên tuổi và việc giảng đạo. Cha Bình trả lời: "Tôi là linh mục,
tên tôi là Bình, người Y Pha Nho, sang An Nam giảng đạo được bảy năm tại nhiều
nơi". Nhưng cha không nói rõ địa điểm nào cả.
Tuy quan Tổng đốc cho giam mỗi vị vào một cũi, nhưng ông ra
lệnh cho viên cai ngục phải đối xử tử tế và nghiêm cấm ăn nói lỗ mãng. Thái độ
"nương tay" trên đã được đồn đại đến tai Tổng đốc Nam Định Nguyễn
Đình Tân, ông đích thân ra Hải Dương và dùng quyền ép viên Tổng đốc ở đây phải
lên án trảm quyết. Ngày 01.11.1861, đúng ngày cha Almatô tròn 30 tuổi, từ nay
trở thành ngày sinh nhật trên trời của cha cùng hai vị Giám mục Hermosilla Liêm
và Berrio Ochoa Vinh.
Ngày xử án, ba chiếc cũi được khiêng đi sau toán lính đông đảo.
Cha Bình trong cũi đầu tiên, tay cầm chuỗi Mân Côi bình thản cầu nguyện khiến mọi
người hiện diện phải bỡ ngỡ. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện,
lý hình đã chém đầu các ngài trong tiếng chiêng đổ dồn. Thi thể ba vị được chôn
cất ngay tại nơi xử án, sau dời về Thọ Ninh. Hiện nay, thủ cấp cha Almatô Bình
được tôn kính ở quê hương Tây Ban Nha, còn hài cốt của cha được an táng trong
thánh đường kính bốn thánh tử đạo Hải Dương.
Ngày 20.05.1906, Đức Piô X đã suy tôn cha Phêrô Almatô Bình, dòng Đaminh lên bậc Chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Ngày 06 tháng 12
Thánh Giuse NGUYỄN DUY KHANG
Thày Giảng dòng ba Đaminh (1832 - 1861)
Một môn sinh trung thành
Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang được các tín hữu Việt Nam tôn kính trong số bốn thánh tử đạo Hải Dương. Tuy thánh nhân tử đạo sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh dự với linh mục Almate Bình, hai Giám mục Valentinô Vinh và Hemosilla Liêm, vì đã cùng đồng lao khổ với ba vị huynh trưởng đó trong dòng Đaminh.
Là người trợ tá của Giám mục Hemosilla Liêm, thày Giuse Khang đã theo sát gương cha chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính vây bắt Đức cha thì với nhiệt tâm của thánh Phêrô tông đồ xưa trong vườn cây dầu, thày định dùng võ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thày đã nghe lời của vị mà mình muốn bảo vệ. Thày chấp nhận bị bắt để làm chứng cho điều cao thượng hơn : Làm chứng cho tình thương, cho lòng nhân ái và thứ tha của Tin Mừng.
Một tu sĩ đạo đức
Giuse Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao Mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các con vào đời sống đạo ngày tư nhỏ. Nhưng cha cậu đã sớm qua đời, cậu được mẹ săm sóc tận tình. Bà lo liệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốn hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Matthêu Năng dòng Đaminh.
Sau mười năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đaminh, và được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi ông việc trong nhà như lao động, nấu ăn, liên lạc với các bề trên. Mặc dù bận rộn, thày Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp xúc với thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn luôn hòa nhã với hết thảy mọi người.
Khi đó, Đức cha Hemosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận tình : từ việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày còn đào hang trú ẩn cho hai cha nữa.
Mẫu gương can đảm
Giáo Hội Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 05.8.1861. theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu Gia Tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. các tín hữu bị khắc chữ trên má, gia đình bị phân chia, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.
Trong bối cảnh đó, ngày 18.9, Đức cha Hemosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: "Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt". Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: "Tôi nhất định theo Đức cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng phó thác và tâm tình hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.
Ba tuần lễ đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành "Tòa Giám mục lưu động" của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentinô Vinh và linh mục Almatô Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa vì cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.
Một hôm gia đình Trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai tức giận với cha mẹ nên tố cáo ông bà chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai thì bắt.
Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai
thày, ngài nói: "Đừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thày
Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn người cha già và chợt hiểu ra ý ngài, thày chỉ
nói được một lời : "Thưa vâng", rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính
trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.
Vị tử đạo Hải Dương
Một tháng rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày liền tổ chức cho cả phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.
Đặc biệt ở trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. một lá thư thày viết : "Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin anh em cầu nguyện cho tôi".
Trong lá thư khác thày viết : "Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ, phải đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn".
Ngày 06.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm Mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của thày ngày 01.11 trước đó. Sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể ngay ở ngoài ruộng.
Năm 1867, theo lệnh của Đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đã dời hài cốt em của mình về nhà nguyện Kẻ Mốt.
Ngày 20.5.1906, Đức Thánh Cha Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Tác giả: Linh mục Phanxicô Xaviê Đào Trung Hiệu OP.