1. Luận chứng về nguyên nhân đầu tiên. Vũ trụ là một chuỗi các nguyên nhân, giống như một dãy cờ đôminô vĩ đại và phức tạp, một quân cờ ngã thì lập tức những quân kế tiếp sẽ đổ theo. Nếu không có lực nào tác động vào quân cờ đôminô đầu tiên, toàn bộ chuỗi cờ sẽ không thể nào chuyển động. Nếu không có Nguyên Nhân Đầu Tiên, sẽ không có các nguyên nhân thứ hai, thứ ba và thứ tư.
Hầu hết các nhà khoa học ngày nay tin rằng, vũ trụ đã từng không hiện hữu. Mười lăm tỷ năm về trước, tất cả vật chất, không gian và thời gian bắt đầu hiện hữu nhờ một vụ nổ mà các nhà khoa học gọi là “Big Bang”. Vụ nổ ấy không thể tự kích nổ chính mình được. Cần phải có một “Big Banger” (một người kích nổ vĩ đại) để có được Big Bang.
Kinh Thánh sử dụng luận chứng về nguyên nhân đệ nhất này. Thư Rôma chương 1 câu 20 nói rằng, Thiên Chúa “tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người”. Thánh Phaolô kết án những kẻ tôn thờ ngẫu tượng do “thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết” (Rm 1,23), vốn là những thứ mà sự hiện hữu của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào một Đấng Sáng Tạo vĩ đại hơn. Họ hẳn phải biết điều đó tốt hơn.
2. Luận chứng từ sự thiết kế. Luận chứng này tiến một bước xa hơn: thế giới này không chỉ phải có một nguyên nhân đầu tiên, mà thiết kế của nó cũng hàm ý phải có một Nhà Thiết Kế cực kỳ thông minh và có chủ đích.
Nếu bạn tìm thấy một tượng đá trên một ốc đảo trong sa mạc, bạn sẽ không nghĩ bức tượng nằm ở đó là do ngẫu nhiên, nhưng phải có một sự thiết kế thông minh nào đó: bạn sẽ nghĩ về một người đã dựng nên bức tượng, chứ không phải gió. Tuy nhiên, vũ trụ này mang trong mình một thiết kế phức tạp hơn rất nhiều so với những thành phần cấu tạo nên nó. Thần Trí đã thiết kế nên vũ trụ phải là một người thông minh vô hạn hơn bất kỳ đầu óc con người nào. Chúng ta có thể tạo ra một tác phẩm nghệ thuật, nhưng liệu có thể tạo ra một vũ trụ như thế này không?
Có một người không tin tranh luận với một người tin rằng toàn bộ vũ trụ này hiện hữu là do tình cờ. Sau đó, hai người đứng trước một pho tượng, và người không tin trầm trồ khen ngợi tác phẩm này. Người ấy hỏi: “Ai làm ra đấy nhỉ?” Người tin trả lời: “Chẳng có ai, do ngẫu nhiên mà có thôi”.
Trong Sách Thánh, trật tự vũ trụ đã làm chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa (Tv 12,1-6). “Người không ngừng làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa màng sung túc cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui” (Cv 14,17).
3. Luận chứng từ các phép lạ. Chỉ Hữu Thể siêu nhiên, với một quyền năng siêu nhiên, mới có thể thi thố một hành động siêu nhiên, tức là phép lạ. Trong Kinh Thánh, nhiều lần “Thiên Chúa chứng thực bằng những dấu lạ điềm thiêng, bằng nhiều quyền năng khác nhau và bằng các ân huệ” (Hr 2,4). Và có vô vàn những bằng chứng về các phép lạ thực sự xảy ra, không chỉ trong thời đại của Kinh Thánh mà còn suốt dòng lịch sử, thậm chí cho đến tận ngày nay. Những phép lạ ấy thực sự xảy ra cho những ai tìm tòi, nghiên cứu chúng với một tâm hồn rộng mở (xem câu hỏi số 56).
4. Luận chứng từ lương tâm. Mỗi người đều biết rằng, dù là chuyện của mình, mình cũng luôn phải nghe theo tiếng nói lương tâm. Thậm chí những người không tin cũng có một lương tâm (Rm 2,14-15). Và lương tâm lên tiếng với một thẩm quyền tuyệt đối. Nó không giống như những quy luật của một trò chơi.
Vậy giờ đây, thẩm quyền tuyệt đối đó xuất phát từ đâu? Không có gì trong chúng ta là tuyệt đối, vậy thì làm thế nào chúng ta có thể là tác giả của lương tâm được? Cũng như chúng ta, xã hội hơn gì một thụ tạo; có thêm hàng tỷ thẩm quyền tương đối vẫn không mang lại cho bạn thẩm quyền tuyệt đối. Chỉ một điều tuyệt đối mới có thể giải thích thẩm quyền tuyệt đối của lương tâm. Lương tâm chính là tiếng nói của Thiên Chúa.
5. Luận chứng từ các hệ quả. Các hệ quả phát sinh từ niềm tin vào Thiên Chúa đó là hy vọng, niềm vui và một cuộc sống tràn đầy ý nghĩa: “Một lý do để sống và một lý do để chết”. Hậu quả của việc không tin chính là trống rỗng và tuyệt vọng. “Kẻ ngu si tự nhủ: làm chi có Chúa Trời!” (Tv 14,1; 53,1).
6. Luận chứng từ Tình Yêu. Tình yêu là phép lạ tuyệt vời và cao cả nhất. Làm thế nào mà một loài khỉ tiến hóa lại có thể tạo ra một ý tưởng cao quý về tình yêu hy sinh bản thân? Tình yêu con người là kết quả của việc chúng ta được tạo nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-27; Gc 3,9), Đấng chính là tình yêu (1Ga 4,8). Nếu chúng ta được tạo ra theo hình ảnh của một con King Kong hơn là hình ảnh của Thiên Chúa, vậy thì làm sao có được các vị thánh?
7. Luận chứng từ lịch sử. Một sinh viên sử học khôn ngoan có thể nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Lịch sử chính là câu chuyện của Thiên Chúa. Nó cho thấy kế hoạch tuyệt vời của Người. Bạn có thể nhìn thấy trật tự thiêng liêng này trong lịch sử dân Israel thời Cựu Ước, và có lẽ cũng nhìn thấy trong chính cuộc đời của bạn. (Đây không hẳn là một luận chứng cho bằng một sự ý thức, hay một lời mời gọi hãy nhìn thật chú tâm).
8. Luận chứng thực nghiệm. Nếu bạn có một đầu óc chân thành, khoa học và cởi mở, vậy thì bạn phải kiểm nghiệm mọi học thuyết một cách công bằng. Cuộc thí nghiệm công bằng cho “học thuyết” về Thiên Chúa chính là cầu nguyện. Nếu bạn muốn biết liệu Thiên Chúa có thực sự hiện hữu không, hãy đi ra sân vườn vào nửa đêm, nhìn lên bầu trời và nói: “Lạy Chúa, con không biết liệu Ngài có thực sự hiện hữu không, nhưng con muốn biết điều đó. Nếu Ngài hiện hữu, nếu Ngài yêu thương con và muốn con nhận biết Ngài, thì này con đây. Con xin mở tâm hồn con cho Ngài, mở ra cho chân lý. Xin hãy để con biết Ngài thực sự hiện hữu, theo cách thức và thời gian riêng của Ngài”. Không có một con người chân thành nào có thể tranh cãi về cuộc thực nghiệm đó. Nhưng nếu một người chân thành cầu nguyện như vậy, người ấy sẽ không còn là một nguời vô thần nữa. Về sự thật ấy, chính Thiên Chúa đã bảo đảm với chúng ta: “Ai tìm thì sẽ thấy” (Mt 7,8). “Luận chứng” tốt nhất đối với người không tin đó là hãy để họ đi tìm. Thiên Chúa sẽ lo liệu phần còn lại.
9. Luận chứng từ vẻ đẹp. Tôi có quen biết với ba người vô thần. Từng người đã nói riêng cho tôi biết lý do mà họ quyết định tin vào Thiên Chúa đó là do nghe nhạc của Johann Sebastian Bach. “Nếu có Bach, phải có Thiên Chúa”. (Bạn cũng sẽ nhận ra điều đó, hoặc là không).
10. Luận chứng tuyệt vời nhất về Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài” (Hr 1,1-2). Hãy đến gặp Người. Hãy đọc các sách Tin Mừng. Khi đó bạn sẽ nhận biết Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Đức Giêsu là cánh cửa trong suốt để nhìn thấy Chúa Cha. Hầu như không có ai sau khi đọc Tin Mừng lại có thể không bị ấn tượng cách sâu sắc bởi Đức Giêsu, chí ít xét về mặt con người. Tuy nhiên, nếu không có Thiên Chúa, thì Đức Giêsu sẽ là một kẻ ngu ngốc nhất thế giới, bởi vì chưa từng có ai gắn chặt toàn bộ cuộc đời mình cùng ý nghĩa của nó vào Thiên Chúa.
Các môn đệ của Đức Giêsu đã đưa ra những lý do cho niềm tin của họ (Cv 19,8), tuy nhiên, hiệu quả hơn hết, họ cũng đưa ra lời chứng cho niềm tin của họ (Cv 2,32). Câu trả lời của các môn đệ, câu trả lời của Hội thánh, cho câu hỏi: “Làm thế nào tôi biết chắc là Thiên Chúa hiện hữu?” đó là: “Tôi đã gặp Người, và tôi xin làm chứng về Người”.
Thi thoảng Thiên Chúa nói: “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận” (Is 1,18), nhưng thi thoảng Người cũng nói: “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39).
Nguồn: daminhvn