GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM C
Số 659-672, 697, 792, 965, 2795: Cuộc Thăng Thiên của Chúa Giêsu
Số 659. “Sau khi nói với họ, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). Thân thể Đức Kitô đã được vinh hiển ngay khi Người sống lại; điều này được chứng tỏ qua các đặc tính mới và siêu phàm mà thân thể của Người được hưởng từ đó và mãi mãi về sau[1]. Nhưng trong bốn mươi ngày, khi Người ăn uống thân mật với các môn đệ của Người[2], và dạy dỗ họ về Nước Trời[3], thì vinh quang của Người vẫn còn được che giấu dưới những nét của một nhân tính thông thường[4]. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu được kết thúc bằng việc nhân tính của Người tiến vào vinh quang thần linh một cách vĩnh viễn; vinh quang này được tượng trưng bằng đám mây[5] và trời[6], nơi từ nay Người ngự bên hữu Thiên Chúa[7]. Một cách ngoại lệ và duy nhất, Người sẽ tỏ mình ra cho thánh Phaolô “như cho một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15,8) và trong lần cuối cùng này, Người đặt ông làm Tông Đồ[8].
Số 660. Tính chất còn che giấu của vinh quang của Đấng Phục Sinh trong thời gian này được soi sáng qua những lời bí nhiệm Người nói với bà Maria Magđalêna: “Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’” (Ga 20,17). Điều này nói lên sự khác biệt của việc biểu lộ giữa vinh quang của Đức Kitô phục sinh và vinh quang của Đức Kitô được tôn vinh bên hữu Chúa Cha. Biến cố Lên Trời, vừa có tính lịch sử đồng thời vừa có tính siêu việt, đánh dấu sự chuyển đổi từ vinh quang này đến vinh quang kia.
Số 661. Bước cuối cùng này vẫn liên kết chặt chẽ với bước đầu tiên, nghĩa là với việc từ trời xuống thế, được thực hiện trong việc Nhập Thể. Chỉ có Đấng “từ Chúa Cha mà đến” mới có thể “trở về cùng Chúa Cha”: đó là Đức Kitô[9]. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13)[10]. Nhân loại, với sức tự nhiên của mình, không thể vào được “Nhà Cha”[11], không thể đạt tới sự sống và sự vinh phúc của Thiên Chúa. Chỉ có Đức Kitô mới có thể mở lối cho con người tiến vào: “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Đầu và là Thủ lãnh của chúng con đã đến trước”[12].
Số 662. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Việc bị giương cao trên thập giá có ý chỉ và loan báo việc được đưa lên trời của mầu nhiệm Thăng Thiên. Thập giá là khởi đầu của Thăng Thiên. Chúa Giêsu Kitô, vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới và vĩnh cửu, “đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra… nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24). Trên trời, Đức Kitô thực thi chức tư tế của Người một cách thường hằng, “Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” “nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa” (Dt 7,25). Với tư cách là “Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai” (Dt 9,11), Người là trung tâm và là chủ sự của phụng vụ tôn vinh Chúa Cha trên trời[13].
Số 663. Đức Kitô, từ nay, ngự bên hữu Chúa Cha: “Khi nói rằng Người ngự bên hữu Chúa Cha, chúng ta muốn nói đến danh dự và vinh quang của thần tính, trong đó Con Thiên Chúa, với tư cách là Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha, đã hiện hữu từ trước muôn đời, nay sau khi trở thành xác phàm, Người ngự một cách có thể nói được là thể lý, với thân thể Người đã đảm nhận, trong chính vinh quang đó”[14].
Số 664. Việc Đức Kitô ngự bên hữu Chúa Cha có nghĩa là sự khai mạc Nước của Đấng Messia, sự hoàn thành thị kiến của tiên tri Đaniel về Con Người: “Người được trao cho quyền thống trị, vinh quang và Nước; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Nước Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7,14). Kể từ lúc ấy, các Tông Đồ trở thành chứng nhân của “Nước sẽ không bao giờ cùng”[15].
Số 665. Cuộc Thăng Thiên của Đức Kitô đánh dấu việc nhân tính của Chúa Giêsu vĩnh viễn tiến vào quyền năng thiên giới của Thiên Chúa, từ đó Người sẽ lại đến[16], nhưng trong khoảng thời gian đó, việc Thăng Thiên đã che giấu Người khỏi mắt người ta[17].
Số 666. Chúa Giêsu Kitô, là Đầu của Hội Thánh, đã đi trước chúng ta vào Nước vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta, là chi thể của Thân Thể Người, sống trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ được vĩnh viễn ở với Người.
Số 667. Chúa Giêsu Kitô, đã tiến vào cung thánh trên trời một lần cho mãi mãi, không ngừng chuyển cầu cho chúng ta với tư cách là Đấng trung gian, Đấng luôn luôn tuôn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
Đức Kitô đã hiển trị nhờ Hội Thánh…
Số 668. “Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,9). Việc Đức Kitô lên trời cho thấy nhân tính của Người cũng được tham dự vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là Chúa: Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người “vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được” vì Chúa Cha “đã đặt tất cả dưới chân Người” (Ep 1,20-22). Đức Kitô là Chúa của tất cả vũ trụ[18] và của lịch sử. Nơi Người, lịch sử của con người, kể cả toàn bộ công trình tạo dựng, tìm gặp được “nơi quy tụ” của mình[19], tột đỉnh siêu việt của mình.
Số 669. Là Chúa, Đức Kitô cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người[20]. Được đưa lên trời và được tôn vinh sau khi chu toàn sứ vụ, Đức Kitô vẫn hiện diện nơi trần thế trong Hội Thánh của Người. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch của quyền bính mà Đức Kitô thực thi trong Hội Thánh bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần[21]. “Nước của Đức Kitô đã hiện diện một cách mầu nhiệm”[22] trong Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời nơi trần thế”[23].
Số 670. Khởi từ cuộc Thăng Thiên, kế hoạch của Thiên Chúa bước vào giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong “giờ cuối cùng” (1 Ga 2,18)[24]. “Quả vậy, những thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta và sự canh tân trần gian đã được thiết lập một cách không thể đảo ngược, và trong thời đại này sự canh tân đó đã được tiền dự một cách hiện thực nào đó: thật vậy, Hội Thánh nơi trần gian được ghi dấu bằng sự thánh thiện thật, tuy còn bất toàn”[25]. Nước Đức Kitô đã biểu lộ sự hiện diện của mình nhờ những dấu chỉ kỳ diệu[26] đi kèm theo việc loan báo Nước đó nhờ Hội Thánh[27].
... cho tới khi mọi sự quy phục Người
Số 671. Tuy nhiên, Nước Đức Kitô, đang hiện diện trong Hội Thánh của Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)[28] do việc Vua ngự đến trần gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công[29], mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cho tới khi mọi sự quy phục Người[30], “cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế của mình, vốn là những điều thuộc thời đại nay, vẫn mang hình dáng của thời đại chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên Chúa”[31]. Vì vậy, các Kitô hữu cầu nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể[32], để Đức Kitô mau lại đến[33], bằng cách thưa với Người: “Lạy Chúa, xin ngự đến !” (Kh 22,20)[34].
Số 672. Đức Kitô, trước cuộc Thăng Thiên của Người, đã khẳng định rằng chưa đến giờ Người thiết lập Nước của Đấng Messia một cách vinh hiển mà Israel mong đợi[35], Nước đó phải mang lại cho mọi người, theo lời các tiên tri[36], một trật tự vĩnh viễn của công lý, của tình yêu, và của hoà bình. Thời gian hiện tại, theo Chúa, là thời gian của Thần Khí và của việc làm chứng[37], nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằng nỗi khó khăn hiện tại[38] và bằng sự thử thách của sự dữ[39], thời gian này không buông tha Hội Thánh[40], và khởi đầu cuộc chiến của những ngày sau cùng[41]. Đây là thời gian của sự mong đợi và tỉnh thức[42].
Số 697. Áng mây và ánh sáng. Hai biểu tượng này là không thể tách biệt trong các cuộc tỏ hiện của Chúa Thánh Thần. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi mờ tối, khi chói sáng, vừa mạc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất sự siêu việt của vinh quang Ngài; với ông Môisen trên núi Sinai[43], trong Lều Hội Ngộ[44] và suốt cuộc hành trình trong hoang địa[45]; với vua Salômôn dịp cung hiến Đền Thờ[46]. Rồi những hình ảnh này được Đức Kitô hoàn thành trong Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần ngự đến trên Đức Trinh Nữ Maria và “phủ bóng” trên Bà, để Bà thụ thai và hạ sinh Chúa Giêsu[47]. Trên núi Hiển Dung, chính Chúa Thánh Thần đến trong đám mây bao phủ Chúa Giêsu, ông Môisen và ông Êlia, cùng với các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, và “từ đám mây có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người’” (Lc 9,35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “quyện lấy Chúa Giêsu khuất mắt” các môn đệ trong ngày Thăng Thiên[48] và sẽ mạc khải Con Người trong vinh quang của Người vào ngày Người ngự đến[49].
Số 792. Đức Kitô là “Đầu của Thân Thể, nghĩa là Đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Người là Nguyên Lý của cả công trình tạo dựng và công trình cứu chuộc. Khi được siêu thăng vào trong vinh quang của Chúa Cha, “Người đứng hàng đầu trong mọi sự” (Cl 1,18), nhất là trong Hội Thánh, và qua Hội Thánh, Người mở rộng Nước của Người trên mọi sự.
Số 965. Đức Maria, sau cuộc Thăng thiên của Con mình, “đã trợ giúp Hội Thánh sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình”[50]. Cùng với các Tông Đồ và một số người phụ nữ khác, “chúng ta thấy … Đức Maria cũng dùng lời cầu nguyện của mình mà khẩn cầu hồng ân là Thần Khí, Đấng đã phủ bóng trên ngài trong ngày Truyền tin”[51].
Số 2795. Thuật ngữ “ở trên trời” hướng chúng ta đến mầu nhiệm Giao ước mà chúng ta đang sống, khi chúng ta cầu nguyện với Cha chúng ta. Ngài “ở trên trời”, đó là nơi Ngài ngự, là nhà của Cha, nên cũng là “quê hương” của ta. Tội lỗi đã khiến chúng ta bị lưu đày xa miền đất Giao ước[52], còn hối cải tâm hồn sẽ dẫn đưa chúng ta trở về cùng Cha “ở trên trời”[53]. Quả vậy, trời đất được giao hòa trong Đức Kitô[54], bởi vì chỉ có Chúa Con đã “từ trời xuống”, và chính Người đã dẫn đưa chúng ta lên trời với Người, nhờ thập giá, sự Phục sinh và Thăng thiên của Người[55].
Văn Việt
Nguồn: WHĐ (26/5/2025)
--------
[1] X. Lc 24,31; Ga 20,19.26.
[2] X. Cv 10,41.
[3] X. Cv 1,3.
[4] X. Mc 16,12; Lc 24,15; Ga 20,14-15; 21,4.
[5] X. Cv 1,9; Lc 9,34-35; Xh 13,22.
[6] X. Lc 24,51.
[7] X. Mc 16,19; Cv 2,33; 7,56; Tv 110,1.
[8] X. 1 Cr 9,1; Ga 1,16.
[9] X. Ga 16,28.
[10] X. Ep 4,8-10.
[11] X. Ga 14,2.
[12] Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Thăng Thiên, I: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 410.
[13] X. Kh 4,6-11.
[14] Thánh Gioan Đamascênô, Expositio fidei, 75 [De fide orthodoxa, 4, 2]: PTS 12, 173 (PG 94, 1104).
[15] X. Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli: DS 150.
[16] X. Cv 1,11.
[17] X. Cl 3,3.
[18] X. Ep 4,10; 1 Cr 15,24.27-28.
[19] X. Ep 1,10.
[20] X. Ep 1,22.
[21] X. Ep 4,11-13.
[22] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[23] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
[24] X. 1 Pr 4,7.
[25] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[26] X. Mc 16,17-18.
[27] X. Mc 16,20.
[28] X. Mt 25,31.
[29] X. 2 Tx 2,7.
[30] X. 1 Cr 15,28.
[31] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[32] X. 1 Cr 11,26.
[33] X. 2 Pr 3,11-12.
[34] X. 1 Cr 16,22; Kh 22,17.
[35] X. Cv 1,6-7.
[36] X. Is 11,1-9.
[37] X. Cv 1,8.
[38] X. 1 Cr 7,26.
[39] X. Ep 5,16.
[40] X. 1 Pr 4,17.
[41] X. 1 Ga 2,18; 4,3; 1 Tm 4,1.
[42] X. Mt 25,1-13; Mc 13,33-37.
[43] X. Xh 24,15-18.
[44] X. Xh 33,9-10.
[45] X. Xh 40,36-38; 1 Cr 10,1-2.
[46] X. 1 V 8,10-12.
[47] X. Lc 1,35.
[48] X. Cv 1,9.
[49] X. Lc 21,27.
[50] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 69: AAS 57 (1965) 66.
[51] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 59: AAS 57 (1965) 62.
[52] X. St 3.
[53] X. Gr 3,19-4,1a; Lc 15,18.21.
[54] X. Is 45,8; Tv 85,12.
[55] X. Ga 12,32; 14,2-3; 16,28; 20,17; Ep 4,9-10; Dt 1,3; 2,13.