GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM C
Nội dung:
Số 210-211: Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Số 604-605, 1846-1848: Thiên Chúa khởi xướng công trình cứu chuộc
Số 1439, 1700, 2839: Đứa con hoang đàng như một mẫu gương về sự hối cải
Số 1465, 1481: Đứa con hoang đàng và bí tích Thống Hối
Số 210-211: Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Số 210. Sau khi dân Israel phạm tội, chối bỏ Thiên Chúa để quay sang thờ con bê bằng vàng[1], Thiên Chúa đã nghe lời chuyển cầu của ông Môisen và chấp nhận đồng hành giữa đám dân bất trung, qua đó biểu lộ tình yêu của Ngài[2]. Khi ông Môisen xin được thấy vinh quang Thiên Chúa, Ngài trả lời: “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Chúa [YHWH] trước mặt ngươi" (Xh 33,18-l9). Và Chúa đi qua trước mặt ông Môisen và hô to: “Chúa, Chúa [YHWH,YHWH], Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,5-6). Lúc đó ông Môisen tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa hay tha thứ[3].
Số 211. Thánh Danh “Ta Hiện Hữu” hoặc “Đấng Hiện Hữu” diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng “giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ” (Xh 34,7) cho dù con người có bất trung, tội lỗi, đáng phải trừng phạt. Thiên Chúa mạc khải rằng Ngài “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu, khi hiến mạng sống mình để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, sẽ mạc khải rằng chính Người mang danh thánh của Thiên Chúa: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là ‘Tôi Hiện Hữu’” (Ga 8,28).
Số 604-605, 1846-1848: Thiên Chúa khởi xướng công trình cứu chuộc
Số 604. Khi trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10)[4]. “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Số 605. Tình yêu này không loại trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người quả quyết Người “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Lời tuyên bố quan trọng này không mang ý nghĩa hạn chế: lời đó đặt song đối tập thể nhân loại với một mình Đấng Cứu Chuộc, Đấng tự hiến để cứu độ nhân loại ấy[5]. Hội Thánh, theo sau các Tông Đồ[6], dạy rằng: Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Người [Đức Kitô] không chịu khổ nạn cho”[7].
Số 1846. Tin Mừng là sự mạc khải, trong Chúa Giêsu Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân[8]. Thiên thần loan báo điều này cho ông Giuse: “Ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của Ơn cứu chuộc: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
Số 1847. Thiên Chúa, “Đấng … đã tạo dựng bạn không cần có bạn, không công chính hoá bạn nếu không có bạn”[9]. Việc đón nhận lòng thương xót của Ngài đòi hỏi chúng ta phải thu nhận tội lỗi của chúng ta: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính, sẽ tha tội cho chúng ta và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 1,8-9).
Số 1848. Cũng như Thánh Phaolô quả quyết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Nhưng để thực hiện công trình của mình, ân sủng phải vạch trần tội lỗi nhằm hối cải trái tim chúng ta và làm cho chúng ta “nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5,21). Cũng như thầy thuốc xem xét vết thương trước khi chữa lành nó, Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời của Ngài và Thần Khí của Ngài, chiếu ánh sáng sống động vào tội lỗi:
“Sự hối cải đòi buộc phải xác tín về tội lỗi; nó bao hàm một phán đoán từ bên trong của lương tâm, và điều này là bằng chứng về sự hành động của Thần chân lý trong hữu thể thẳm sâu của con người, và đồng thời cũng là khởi điểm của việc ban tặng mới của ân sủng và tình yêu: “Hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần”. Như vậy, trong việc xác tín về tội lỗi, chúng ta nhận ra một hồng ân kép: hồng ân về chân lý của lương tâm và hồng ân về sự chắc chắn của ơn cứu chuộc. Thần chân lý là Đấng an ủi”[10].
Số 1439, 1700, 2839: Đứa con hoang đàng như một mẫu gương về sự hối cải
Số 1439. Chúa Giêsu đã mô tả tiến trình hối cải và thống hối một cách tuyệt vời trong dụ ngôn quen được gọi là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” mà trọng tâm của nó là “Người cha nhân hậu”[11]: sự quyến rũ của một thứ tự do sai lạc, việc rời bỏ nhà cha; sự đau khổ cùng cực sau khi phung phí tất cả tài sản; sự nhục nhã sâu xa khi thấy mình phải đi chăn heo, và còn tệ hơn nữa, ước muốn ăn cám heo mà không được; việc suy nghĩ lại về những điều thiện hảo đã bị đánh mất; sự hối hận và quyết định nhận mình có lỗi trước mặt cha; con đường trở về; việc đón nhận bao dung của người cha; niềm vui của người cha: Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hối cải. Áo đẹp, nhẫn và tiệc mừng là những biểu tượng của một đời sống mới, thanh sạch. Xứng đáng, tràn ngập niềm vui, đó là đời sống của người trở về cùng Thiên Chúa, giữa lòng gia đình của Ngài, là Hội Thánh. Chỉ trái tim Đức Kitô, Đấng thấu suốt các tầng sâu thẳm của tình yêu của Cha Người, mới có thể mạc khải cho chúng ta tận đáy lòng thương xót của Thiên Chúa một cách đơn sơ và đầy vẻ đẹp như vậy.
Số 1700. Phẩm giá của nhân vị bắt nguồn từ việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa (Mục 1); phẩm giá này được hoàn thành trong ơn gọi đến hưởng vinh phúc thần linh (Mục 2). Trách nhiệm của con người là tự nguyện hướng tới sự hoàn thành đó (Mục 3). Bằng những hành vi có ý thức của mình (Mục 4), nhân vị sống phù hợp hay không phù hợp với điều thiện hảo mà Thiên Chúa đã hứa và lương tâm chứng nhận (Mục 5). Người ta tự xây dựng bản thân mình và tăng trưởng nội tâm: họ sử dụng toàn bộ đời sống cảm giác và tinh thần của họ làm chất liệu cho sự tăng trưởng của mình (Mục 6). Nhờ ân sủng trợ giúp, họ tăng trưởng về nhân đức (Mục 7), xa lánh tội lỗi, và nếu đã phạm tội, họ sẽ như đứa con hoang đàng[12], phó thác cho lòng thương xót của Cha chúng ta trên trời (Mục 8). Như vậy, con người đạt tới sự trọn hảo của đức mến.
Số 2839. Với lòng phó thác bạo dạn, chúng ta đã bắt đầu cầu nguyện với Cha chúng ta. Khi nguyện xin Ngài cho Danh Ngài cả sáng, chúng ta đã xin Ngài luôn thánh hoá chúng ta hơn nữa. Nhưng, dù đã mặc chiếc áo Rửa Tội, chúng ta vẫn không ngừng phạm tội, và quay lưng lại với Thiên Chúa. Giờ đây, trong lời cầu xin mới này, chúng ta trở lại với Ngài, như đứa con hoang đàng[13], và thú nhận mình là tội nhân trước mặt Ngài, như người thu thuế[14]. Lời cầu xin của chúng ta bắt đầu bằng “việc xưng thú”, qua đó chúng ta vừa thú nhận sự khốn cùng của chúng ta, và đồng thời, vừa tuyên xưng lòng thương xót của Ngài. Niềm hy vọng của chúng ta thật vững chắc, bởi vì, trong Con của Ngài, “chúng ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1,14)[15]. Chúng ta gặp được dấu chỉ hữu hiệu và chắc chắn về ơn tha thứ của Ngài trong các bí tích của Hội Thánh Ngài[16].
Số 1465, 1481: Đứa con hoang đàng và bí tích Thống Hối
Số 1465. Khi cử hành bí tích Thống Hối, tư tế chu toàn thừa tác vụ của vị Mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, của người Samaritanô nhân hậu băng bó các vết thương, của người Cha chờ đợi đứa con hoang đàng và đón nhận nó khi nó trở về, của vị thẩm phán công chính không thiên vị ai, và xét xử vừa công bằng vừa hay thương xót. Tắt một lời, tư tế là dấu chỉ và là dụng cụ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Số 1481. Phụng vụ Byzantin có nhiều công thức xá giải, mang hình thức cầu khẩn, diễn tả cách tuyệt vời mầu nhiệm tha thứ: “Thiên Chúa đã dùng tiên tri Nathan mà tha thứ cho Đavid khi ông xưng thú tội mình. Ngài đã tha thứ cho ông Phêrô khi ông khóc lóc đau đớn, đã tha thứ cho người kỹ nữ khi cô nhỏ lệ trên chân Chúa, đã tha thứ cho người thu thuế và cho đứa con hoang đàng. Xin chính Thiên Chúa tha thứ cho bạn, qua tôi, là kẻ tội lỗi, ở đời này và đời sau, và không kết án bạn, khi đòi bạn phải ra trước toà phán xét khủng khiếp của Ngài, Ngài là Đấng được chúc tụng muôn đời. Amen”[17].
Văn Việt (tổng hợp)
Nguồn: WHĐ (10/9/2025)
__________
[2] X. Xh 33,12-17.
[3] X. Xh 34,9.
[4] X. 1 Ga 4,19.
[5] X. Rm 5,18-19.
[7] CĐ Carisia (năm 853), De libero arbitrio hominis et de praedestinatione, canon 4: Ds 624.
[8] X. Lc 15.
[9] Thánh Augustinô, Sermo 169, 11, 13: PL 38, 923.
[10] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Dominum et vivificantem, 31: AAS 78 (1986) 843.
[11] X. Lc 15,11-24.
[12] X. Lc 15,11-31.
[13] X. Lc 15,11-32.
[14] X. Lc 18,13.
[15] X. Ep 1,7.
[16] X. Mt 26,28; Ga 20,23.
[17] Eukologion to mega (Athens 1992) 222.