Có một lời nguyện thường được liên lỉ dâng lên Chúa, đó là lời cầu nguyện cho hoà bình trên thế giới, trong Giáo hội và giữa mọi người. Có thể nói, ước mơ hoà bình là căn bản của con người, bất cứ ai cũng mong muốn thuận hoà chứ không muốn chiến tranh. Đó đồng thời cũng là ước mơ của Chúa “Phúc thay ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Chúa Giêsu nhấn mạnh kiến tạo hoà bình hay sự thuận hoà là một mối phúc. Ai phấn đấu vì điều đó xứng đáng là công dân Nước Trời. 

Có nhiều cách thức để người ta xây dựng hoà bình. Truyền thống dân gian Việt Nam thường nhắc nhở nhau về những đạo lý tốt đẹp “một điều nhịn bằng chín điều lành,” hay những lời khuyên bảo các gia đình về sự hòa thuận “thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn,” hoặc “vợ chồng đóng cửa bảo nhau,” “chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê!” Bên cạnh đó, ông cha chúng ta cũng thiết tha mở rộng cho mối tương quan chung sống hoà bình ngoài gia đình, ở tầm mức quê hương đất nước. Các cụ dạy rằng: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” Tuy vậy, kiến tạo hòa bình có lẽ không chỉ dừng ở việc kêu gọi sự nhân nhượng hay nhường nhịn của yêu thương, bác ái. Đó là chất xúc tác cần thiết, nhưng để có sự hoà thuận cũng cần lời nói, bởi mỗi người đều cần được giãi bày và lắng nghe. Gọi chung đó là đối thoại. Đối thoại là căn bản để sống ý nghĩa làm người và là căn bản của hoà bình.

Thánh Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Nơi Thiên Chúa chỉ toàn là yêu thương và thương xót. Nhưng tình yêu nơi Thiên Chúa không chỉ có áp đặt hoặc uỷ mị van nài, mà lịch sử đã chứng kiến một vị Thiên Chúa luôn đi vào trong cuộc đối thoại với con người. “Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: ‘Ngươi ở đâu?’” (St 3,9); với Cain, Thiên Chúa cũng mở lời: “Cain, ‘Aben, em ngươi đâu rồi?”’ (St 4,9). Rồi Thiên Chúa cũng đối thoại với Abraham, với Môsê, với các ngôn sứ, với dân Israel. Và đỉnh cao, Thiên Chúa đã đối thoại với con người qua chính Chúa Giêsu, Ngôi Hai xuống thế làm người. Qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu, người ta hiểu thế nào là một Thiên Chúa muốn sống chan hoà và giúp con người kiến tạo hoà bình bằng con đường đối thoại. Qua muôn vàn câu chuyện, người ta thấy Chúa Giêsu luôn quan sát, trân trọng ý kiến và lắng nghe quan điểm của mọi người. Chúa hỏi Matta: “chị có tin thế không?” (Ga 11,9). Đôi khi Chúa hỏi thêm để giúp người ta hiểu “các ông nghĩ sao, ngày Sabát được phép cứu sống hay giết chết?” (Mc 3,4). Hay thậm chí trách móc “ai trong các ông sạch tội thì lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Thực sự, Chúa Giêsu đã biến đối thoại thành một nghệ thuật của sự tiếp cận, tôn trọng, gặp gỡ, và giúp người ta chung sống hoà bình với nhau. Vậy Chúa Giêsu đã dùng khí cụ gì để đối thoại, hay nói cách khác, đâu là những yếu tố căn bản cho đối thoại?

Nhìn chung, đối thoại cần đến chân lý. Chân lý là khí cụ của hoà bình và cũng là cần thiết của đối thoại. Chúa Giêsu dùng chân lý chứ không dùng vũ khí “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Ngay cả với ma quỷ Chúa cũng dùng đến chân lý để khuất phục “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,” “ngươi chớ thử thách Đức Chúa,” và “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,4.8.10). Ngày hôm nay, các quốc gia muốn chung sống hoà bình, hoặc các quốc gia muốn trợ giúp việc kiến tạo hoà bình đều kêu gọi sự nhân nhượng, đối thoại dựa trên những quyền căn bản hay những giá trị chung của nhân loại, trong đó quyền căn bản nhất là mưu cầu hạnh phúc. Kinh Thánh hay bản Tuyên ngôn Nhân Quyền là những di sản quý giá chứa đựng những chân lý thiết yếu để con người cùng nhau xây dựng một thế giới hoà bình. 

Sau hết, nhìn về cuộc đời Chúa Giêsu và nhiều nhân vật khác, đôi khi đối thoại không mang đến hoà bình, chân lý không đem lại chiến thắng. Khi đó chân lý thuộc về kẻ mạnh, có quyền. Bởi hệ quả là Chúa Giêsu và các nhân vật ấy đã chết. Nhìn một cách chung, đối thoại có thể không phải là con đường duy nhất hay nhất định đưa đến hoà bình nhưng đó là một phần của hoà bình, và đối thoại là lời mời gọi và là con đường của Chúa. Đó cũng là con đường của Kitô giáo, của Giáo hội. Giáo hội chọn đối thoại, lắng nghe đôi bên, như trong các nỗ lực đối thoại liên tôn hay đối thoại đại kết, để Giáo hội được hiệp nhất và cùng với các tôn giáo khác kiến tạo hoà bình cho thế giới. 

Có lẽ trong bất kì mối tương quan nào hay ở cấp độ nào cũng cần sự đối thoại. Mặc dù chọn đối thoại là khó, nhất là dưới ảnh hưởng của chủ thuyết đề cao cá nhân, hay ảnh hưởng của văn hoá hoặc các hệ tư tưởng dựa trên sự phân cấp giới tính hay các tầng lớp xã hội. Hay đơn giản, những quan điểm cho rằng đối thoại là mất giờ, không cần thiết cũng là bước cản trở đối thoại. Song đối thoại thể hiện tình liên đới, tôn trọng nhau và tôn trọng chân lý. Đối thoại cũng thể hiện sự bình đẳng, ngang bằng nhau về giá trị và tài năng. Nhờ sự bình đẳng như vậy, kết quả đem lại nhờ đối thoại sẽ sâu sắc và thuyết phục hơn. 

Tôi chọn con đường đối thoại, hơn là chỉ theo ý mình hoặc tự quyết định mà không cần lắng nghe. Chọn đối thoại cũng là chọn hy vọng, chọn mở ra thế giới của bản thân. Qua lắng nghe, chia sẻ và hồi đáp sẽ giúp tôi hiểu hơn mọi người, từ đó hy vọng thức tỉnh và nếu có thể thay đổi vùng chân trời của họ, chữa lành họ. Đối thoại cũng là hy sinh, hy sinh cái tôi để bước vào thế giới của người khác, để cùng hiện diện với nhau. Và tôi cũng chọn đối thoại bởi đó là con đường của Chúa, Chúa đã đi và đã chiến thắng, dù phải hy sinh mạng sống của mình với niềm tin “nhờ nhận biết chân lý là chính Chúa mà muôn vật được sống, được giao hoà với Chúa (Cl 1,20).” 


Lm. Antôn Nguyễn Quang Huy, S.J.

Nguồn: dongten