Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi 1: Đâu là nguồn gốc của vị thánh bổn mạng của giáo xứ hay của nhà thờ? – D. Z., Bắc Kinh, Trung Quốc.

Hỏi 2: Nếu giáo xứ của con được đặt theo tên của Chúa Thánh Thần, liệu có đúng thần học khi nói Chúa Thánh Thần như là vị bổn mạng của giáo xứ chúng con không? Nói chính xác, trong kinh nguyện giáo xứ của chúng con, một phần đọc: “Lạy Chúa Thánh Thần, Bổn mạng của giáo xứ chúng con…”. Nhưng một số linh mục cau mày về điều này, nói rằng Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa, không thể được gọi là “Vị Bổn mạng” được. Nhưng con biết rằng thuật ngữ “vị bổn mạng” bằng cách nào đó ám chỉ “đấng bầu chữa”, vốn được sử dụng cho Chúa Thánh Thần. Xin cha vui lòng giúp đỡ, con đang cần cha làm sáng tỏ. – E. I., bang Enugu, Nigeria.

Đáp: Bởi vì hai câu hỏi này liên quan với nhau, tôi sẽ cố gắng giải quyết chung với nhau.

Nguồn gốc của tục lệ đặt tên hoặc cung hiến các nhà thờ với tước hiệu riêng là không rõ ràng, mặc dù nó là phổ quát trong thực tế, và không giới hạn cho Hội Thánh Công Giáo.

Có thể nó gắn liền với sự cung hiến của các nhà thờ vào thời đầu của Hội Thánh. Điều này xảy ra cách đặc biệt sau khi sự tự do thờ phượng được Hoàng đế Constantine ban hành vào năm 313. Nhưng có bằng chứng về các nhà thờ được xây dựng có mục đích, hoặc các tòa nhà lớn được thích nghi cho việc thờ phượng Kitô giáo, từ khoảng năm 230.

Trong một số trường hợp, nhà thờ gắn liền với ngôi mộ hoặc di tích của một vị thánh tử đạo, và nhà thờ này được dâng hiến cho Ngài.

Ở những nơi khác, đặc biệt ở Rôma, nó liên quan đến tên của một vị ân nhân, tức người đã nhượng tài sản cho cộng đoàn vì mục đích thờ phượng, hoặc bằng cách nào đó đã tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc tập họp đều đặn của cộng đoàn. Trong Rm 16: 3-5, thánh Phaolô gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca (Prisca) và anh A-qui-la (Aquila) và “Hội Thánh vẫn họp tại nhà anh chị ấy”. Mặc dù có lời đề cập này, bằng chứng khảo cổ cho việc sử dụng các ngôi nhà tư nhân cho việc thờ phượng ở Rôma cổ là rất ít. Do đó, trong khi các nhà hảo tâm không nhất thiết là chủ của nhà, mà việc thờ phượng Chúa diễn ra ở đó, tên của họ được gắn liền với một số nhà thờ cổ nhất của Rôma để tạo ra cái gọi là các nhà thờ Titulus (tước hiệu) của thành phố, vốn gồm có 28 nhà thờ theo một danh sách trong năm 499. Trong số này, ngoài nhà thờ các thánh Prisca và Aquila, có các nhà thờ thánh Sabina, thánh Praxides và thánh Crisogono.

Tập tục cung hiến long trọng các nhà thờ bằng một hình thức nào đó có lẽ là rất sớm, mặc dù bằng chứng đầu tiên về nghi thức cụ thể được tìm thấy trong nửa đầu của thế kỷ IV. Thánh Eusebius thành Caesarea mô tả nhiều sự cung hiến nhà thờ sớm nhất vào năm 314.

Tập tục cung hiến các nhà thờ với một tước hiệu đặc biệt dường như đã bắt đầu vào cùng thời điểm ấy, mặc dù không có luật nào đòi hỏi.

Do đó, vào năm 435, nhà thờ Đức Bà Cả (Santa Maria Maggiore) trở thành một trong các vương cung thánh đường đầu tiên được dâng hiến trực tiếp cho Đức Maria, mặc dù một số người tuyên bố vinh dự này cho nhà thờ Santa Maria ở Trastevere dưới thời Giáo hoàng Julius I (337-352), người đã dâng hiến nhà thờ cho Đức Maria khi ngài tu sửa một tòa nhà có trước đó.

Nhà thờ Hagia Sophia, hay Nhà thờ Đức Khôn ngoan thánh, ở Constantinople đã được hoàn thành vào năm 537, và là nhà thờ thứ ba có tước hiệu ấy được xây dựng tại chỗ.

Các nghi thức cung hiến đã trở nên phức tạp hơn theo thời gian, và lấy cảm hứng từ các mô tả Kinh thánh về lễ khánh thành Nhà tạm trong chương 40 sách Xuất hành, và về các lần cung hiến và tái cung hiến Đền thờ Solomon ở Giêrusalem. Đến khoảng thế kỷ VIII, các nghi thức đã trở nên rất phức tạp, và việc trao cho mỗi nhà thờ một tước hiệu đã là một tập tục ràng buộc theo luật.

Theo Bộ Giáo luật hiện hành (Điều 1218) và Nghi thức cung hiến một nhà thờ (số 4) và Sách Lễ Nghi Giám mục, số 865:

“Mỗi nhà thờ phải mang một tước hiệu riêng, và một khi đã cung hiến, không thể thay đổi tước hiệu nữa” (Bản dịch Việt ngữ của các Linh Mục: Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh).

Tước hiệu được ban cho nhà thờ vào thời điểm cung hiến thông qua sắc lệnh của Giám mục.

Để làm rõ thêm các quy chế này và giải quyết một số tình huống mục vụ mới, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí Tích đã ban hành một thông báo, “Omnis ecclesia titulum” vào ngày 10-2-1999, “Liên quan đến việc đặt tên thánh bổn mạng cho các giáo phận và giáo xứ”. Tài liệu viết:

1. Mỗi nhà thờ phải có một tước hiệu được chỉ định trong một buổi phụng vụ, hoặc lễ cung hiến hoặc làm phép.

2. Trong tước hiệu, các nhà thờ có thể dùng danh thánh Ba Ngôi Cực thánh; Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, được gợi ra dưới một mầu nhiệm cuộc đời Ngài hay dưới thánh danh của Ngài như đã sử dụng trong phụng vụ; Chúa Thánh Thần; Đức Trinh Nữ Maria dưới một tước hiệu đã có trong phụng vụ; các thiên thần, hay một vị Chân phước hay vị Thánh có tên trong Sổ Các Thánh Rôma.

3. Có lẽ nên chỉ có một tước hiệu cho một nhà thờ, trừ khi nó được bắt nguồn từ các Thánh được ghi tên chung trong một Lịch phụng vụ riêng.

4. Bất kỳ vị Chân phước nào, mà việc kính nhớ Ngài chưa được ghi trong Lịch giáo phận hợp pháp, thì không thể được chọn làm tước hiệu của một nhà thờ, mà không có đặc miễn của Tòa Thánh.

5. Một khi tước hiệu đã được đặt trong việc cung hiến một nhà thờ, tước hiệu này không thể được thay đổi (Giáo luật điều 1218), trừ khi, vì các lý do nghiêm trọng, nó được cho phép rõ ràng bởi một đặc miễn của Tòa Thánh.

6. Tuy nhiên, nếu một tước hiệu đã được chỉ định như một phần của việc làm phép nhà thờ, theo Ordo Benedictionis Ecclesiae (nghi thức làm phép nhà thờ), nó có thể được thay đổi bởi Giám mục giáo phận (xem điều luật 381, 1) vì một lý do nghiêm trọng, và với tất cả các yếu tố được xem xét hợp lệ.

7. Tên của một giáo xứ thường có thể giống với tước hiệu của nhà thờ giáo xứ.

8. Là vị trung gian hoặc đấng bầu chữa trước mặt Thiên Chúa, thánh bổn mạng là con người được tạo thành, chẳng hạn Đức Trinh Nữ Maria, các Thiên thần, một vị Thánh hay Chân phước. Vì cùng một lý do, Ba Ngôi Chí Thánh và mỗi Ngôi luôn bị loại ra như là vị bổn mạng.

9. Vị bổn mạng phải được chọn lựa bởi hàng giáo sĩ và tín hữu, và sự lựa chọn của họ phải được chấp thuận bởi giáo quyền có thẩm quyền. Để cho việc đặt tên có thể mang lại hiệu quả phụng vụ, sự chọn lựa và tán thành cần phải có sự xác nhận của Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, và sự xác nhận được ban hành bởi sắc lệnh của Thánh Bộ này.

10. Thánh bảo mạng của một địa điểm được phân biệt với tước hiệu của một nhà thờ; hai cái có thể là giống nhau, nhưng không nhất thiết là như vậy.

11. Khi một giáo xứ mới được xây dựng thay cho một số giáo xứ hủy bỏ, giáo xứ mới có thể có nhà thờ riêng, vốn giữ lại tước hiệu hiện tại, trừ khi đó là một tòa nhà mới xây. Hơn nữa, các nhà thờ của các giáo xứ hủy bỏ, bất cứ khi nào các giáo xứ này được coi là ‘đồng giáo xứ’ (co-parish), vẫn giữ các tước hiệu riêng của họ.

12. Nếu một số giáo xứ được kết hợp với nhau để thành một giáo xứ mới, thì vì lý do mục vụ, được phép thiết lập một tước hiệu mới khác với tước hiệu của nhà thờ giáo xứ.

Tài liệu này cũng làm sáng tỏ một trong các câu hỏi của chúng ta. Chúa Thánh Thần không thể là vị bổn mạng, theo nghĩa riêng của từ ngữ, và lời nguyện nói với Ngài như vậy là không chính xác. Khái niệm của tước hiệu của một nhà thờ và khái niệm vị bổn mạng là khác nhau, mặc dù trong một số trường hợp chúng có thể trùng hợp.

Đôi khi, chúng có thể bị nhầm lẫn trong lòng đạo đức bình dân. Thí dụ, quốc gia El Salvador, có nghĩa là “Đấng Cứu Thế”, mừng ngày quốc khánh của họ vào ngày lễ Chúa Biến hình (ngày 6-8) để tôn vinh Chúa Cứu Thế của thế giới. Ngày lễ và các ngày dẫn tới ngày lễ được gọi là “các lễ bổn mạng” theo cách nói bình dân, mặc dù điều này có thể là không chính xác về mặt kỹ thuật. (Zenit.org 17-10-2017)

Nguyễn Trọng Đa (TGP Hà Nội)

Nguồn: Tgp Hà Nội


Hướng Dẫn Của Giáo Hội Về Việc Chọn Bổn Mạng Giáo Xứ & Tước Hiệu Nhà Thờ

(Bài viết đăng trên trang Đại Chủng Viện Xuân Lộc)


Chọn và tôn kính một vị Thánh làm Bổn mạng cho Giáo xứ, Giáo họ biệt lập, các Hội đoàn, các Giới… là một truyền thống đạo đức đầy ý nghĩa trong đời sống Giáo Hội. Đó cũng là một thực hành quen thuộc rất đáng trân trọng trong Giáo phận chúng ta. Ban Phụng tự Giáo phận chúng con xin được trình bày với Quý Cha về các hướng dẫn của Giáo Hội để giữ cho thực hành này đúng với ý nghĩa thần học và phù hợp với ý muốn của Giáo Hội, nhằm mang lại nhiều hiệu quả thiêng liêng cho dân Chúa.

I. VỀ VIỆC CHỌN THÁNH BỔN MẠNG

1. Theo nghĩa Phụng vụ, Thánh Bổn mạng là vị Thánh được tôn kính như Đấng bảo trợ, Đấng chuyển cầu bên Tòa Chúa[1] cho các Kitô hữu thuộc:

a/ Một địa phương như là một quốc gia, vùng, giáo phận, giáo xứ, thành phố hoặc làng xã…;

b/ Một gia đình dòng tu;

c/ Một pháp nhân, một hiệp hội, tổ chức, các nhóm giáo sĩ hoặc giáo dân[2].

2. Có thể chọn làm bổn mạng Đức Trinh nữ Maria dưới các danh hiệu đã được chuẩn nhận trong Phụng vụ, các Thánh Thiên Thần hoặc các Thánh được mừng kính trong Phụng vụ. Các Á Thánh chỉ được phép chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh[3].

Một điều cần lưu ý là không bao giờ được chọn Thiên Chúa Ba Ngôi hay các ngôi vị Thiên Chúa làm Bổn mạng[4] vì Ngài là chính Đấng ban ơn chứ không phải Đấng chuyển cầu: “Không thể chọn Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng Bảo trợ, vì chính Thiên Chúa không tự giới hạn quyền bảo trợ của mình vào một nơi nào, cũng không phải là Đấng Bảo trợ ngang hàng với bất cứ ai khác”[5].

3. Bộ Phụng tự cũng quy định “Chỉ được chọn một thánh Bổn mạng. Được phép chọn hai vị thánh hoặc hơn hai vị làm Bổn mạng, nếu các vị thánh này trong lịch phụng vụ được mừng chung với nhau (Thí dụ: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Các thánh Tử Đạo Việt Nam)[6].

Tuy nhiên, khi có lý do đặc biệt, cũng được chọn thêm một thánh Bổn mạng khác như là Bổn mạng thứ hai. Trong tương lai, thông thường sẽ chỉ có một thánh Bổn mạng duy nhất[7].

II. VỀ TƯỚC HIỆU NHÀ THỜ HOẶC DÒNG TU…

1. Tước hiệu là danh hiệu, tên gọi dành cho một nhà thờ, một dòng tu, một hiệp hội, một nhóm. Tước hiệu khác với Thánh Bổn mạng, cho dù trong nhiều trường hợp Thánh Bổn mạng của Giáo xứ cũng được chọn làm Tước hiệu của Nhà thờ [8].

2. Tước hiệu được đặt khi nhà thờ được làm phép hay cung hiến[9].

Khác với việc chọn Thánh Bổn mạng, Tước hiệu có thể là “Thiên Chúa Ba Ngôi, hoặc Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo danh cầu của một mầu nhiệm trong cuộc đời Người hoặc một danh xưng đã được sử dụng trong phụng vụ, hoặc là Chúa Thánh Thần”.

Nhưng cũng giống với việc chọn Thánh Bổn mạng, có thể chọn tước hiệu “là Đức Trinh Nữ Maria theo một danh hiệu nào đó đã được chuẩn nhận trong phụng vụ; hoặc là các Thánh Thiên Thần, hoặc sau cùng là một vị Thánh đã được chính thức ghi vào trong sổ bộ các Thánh Tử Đạo Rôma hoặc trong phần phụ lục của sách ấy; nhưng không được là một vị Chân phước, mà không có phép chuẩn của Toà Thánh”[10].

Mặt khác, “chỉ được phép có một tước hiệu nhà thờ mà thôi, trừ khi là những vị Thánh này trong lịch phụng vụ được mừng chung với nhau (như thánh Phêrô và Phaolô…)”[11].

Giáo luật cũng minh định: “Mỗi nhà thờ phải có tước hiệu riêng và một khi đã được cung hiến thì không được thay đổi tước hiệu này nữa”[12].

3. Như vậy, cần phân biệt rõ “Tước hiệu” và “Bổn mạng”:

Tước hiệu có thể chọn Thiên Chúa Ba Ngôi hoặc từng Ngôi vị Thiên Chúa, nhưng Bổn mạng thì không được chọn Thiên Chúa Ba Ngôi.

– Chúng ta thấy có “Bổn mạng” của giáo xứ, giáo họ, dòng tu, các hội đoàn…, chứ không có bổn mạng của nhà thờ. Và không được chọn Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu hay các Ngôi Vị Thiên Chúa làm bổn mạng.

– Ngược lại, chúng ta thấy có “Tước hiệu” của một nhà thờ, của một Dòng tu, một cộng đoàn. Và có thể chọn làm “Tước hiệu” Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu hay từng Ngôi Vị Thiên Chúa, Đức Trinh Maria, v.v…

Thí dụ: “Chúa Cứu Thế” là tước hiệu của một Hội Dòng, nhưng “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” là bổn mạng của Hội Dòng này…

Như vậy, về phương diện phụng vụ, một giáo xứ thường có ba ngày lễ trọng riêng là: lễ Bổn mạng Giáo xứ, lễ Tước hiệu Nhà thờ và lễ Kỷ niệm ngày Cung hiến Nhà thờ hằng năm.

Tuy nhiên, với lễ kính Chúa Giêsu, liên kết với Đức Maria và Thánh Giuse trong mầu nhiệm cứu độ như “Lễ Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse” (Santae Familiae Iesu, Mariae et Ioseph), thường được chọn làm bổn mạng của các gia đình hoặc một cộng đoàn. Trong trường hợp này, gia đình hoặc cộng đoàn không chọn Chúa, mà chọn Đức Maria và Thánh Giuse như người bầu cử và gương mẫu của họ.

Chúng con hy vọng những điều trình bày trên sẽ giúp Quý Cha trong việc chọn lựa thánh Bổn mạng cho giáo xứ, giáo họ, hội đoàn, các nhóm… cũng như chọn Tước hiệu cho nhà thờ đúng với ý nghĩa thần học và phù hợp với hướng dẫn của Giáo Hội.

Long Khánh, ngày 24/9/2015

Ban Phụng Tự

Nguồn: ĐCV Xuân Lộc

—————-
[1] Cf. Thánh Bộ Phụng Tự (nay là Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích [1988]), Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng 19/3/1973, số 1 trong EV 4/2341.
[2] Ibid. số 3 trong EV 4/2343.
[3] Cf. GL 1278.
[4] Cf. Thánh Bộ Phụng Tự, “Huấn thi Lịch riêng”, 24/6/1970, số 28 trong EV 3/2606; Cf. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng 19/3/1973, số 4 trong EV 4/2344.
[5] Le Gall Dom Robert, Tự điển Phụng Vụ (Dictionaire de Liturgie), C.L.D., 1982, tr. 42-43.
[6] Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng 19/3/1973, số 5 trong EV 4/2345.
[7] Cf. Ibid. số 5 trong EV 4/2345.
[8] Ibid. số 2 trong EV 2/2342.
[9] Cf. Thánh Bộ Bí Tích và Phụng Tự, Ordo dedicationis ecclesiae et altaris, 29/5/1977, Praenotanda, số 4, trong EV 6/201.
[10] Cf. Thánh Bộ Phụng Tự, số 4, trong EV 6/201; Cf. Huấn thị Lịch riêng, số 34, trong EV/2610.
[11] Thánh Bộ Phụng Tự,Caeremoniale Episcoporum, 14/9/1984, “Về việc cung hiến Nhà thờ”: Những điều cần biết trước, số 865.
[12] GL đ. 1218.


Hướng dẫn của Giáo hội về việc chọn Tước hiệu, Bổn mạng

(Bài viết tổng hợp của Đa Minh Thái Bình)

1. Định nghĩa và phân biệt:

• Chúng ta thấy có “tước hiệu” của nhà thờ[1], hay của một Dòng tu, một tu hội[2], chứ không có tước hiệu của giáo xứ. Trái lại, “Bổn mạng” là Bổn mạng của giáo họ, giáo xứ, giáo phận, thành phố, quốc gia[3], hay của Dòng tu, các hiệp hội, tổ chức, các nhóm[4] v.v…, chứ không có Bổn mạng của nhà thờ.

• “Thánh Bổn mạng” = là vị thánh được tôn kính như Vị Bảo trợ hay Vị chuyển cầu trước Tòa Chúa[5]. Trong khi đó, tước hiệu là danh hiệu, tên gọi của một nhà thờ, hay của Dòng tu, hiệp hội, một nhóm. Do đó, Tước hiệu khác với Thánh Bổn mạng, cho dù cách nào đó Tước hiệu giả thiết thánh Bổn mạng[6].

• Giống nhau: có thể chọn Bổn mạng hay tước hiệu: Đức Trinh Nữ Maria, các thánh. Các Á Thánh chỉ được chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh.

• Nhưng khác biệt: không bao giờ được chọn làm Bổn mạng Thiên Chúa Ba Ngôi, hay các ngôi vị Thiên Chúa[7] (vì Thiên Chúa ban ơn, chứ không chuyển cầu cho trước Tòa ai cả), trong khi có thể chọn làm tước hiệu[8].

2. Làm thế nào để đặt Thánh Bổn mạng cách hợp pháp?

• Được chọn bởi các giáo sĩ và giáo dân nơi sẽ được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Bổn mạng, hoặc bởi những người liên hệ trong trường hợp các Dòng tu, hiệp hội, tổ chức, hay các nhóm; qua cách thức: hoặc là tham khảo ý kiến hay bỏ phiếu, hoặc là thỉnh cầu hay thu thập chữ ký[9].

• Phải được thẩm quyền Giáo Hội chấp thuận[10];

• Và phải được Bộ Phụng tự phê chuẩn[11].

• Chỉ được chọn một thánh Bổn mạng duy nhất. Được phép chọn hai vị thánh hoặc hơn hai vị làm Bổn mạng, nếu các vị thánh này trong lịch phụng vụ được mừng chung với nhau (Thí dụ: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Các thánh Tử Đạo Việt Nam)…[12];

• Được chọn làm Bổn mạng: Đức Trinh nữ Maria, các thiên thần, các thánh. Các Á Thánh chỉ được chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh. Tuyệt đối không được chọn Thiên Chúa Ba Ngôi hay một Ngôi Vị Thiên Chúa hay các ngôi vị Thiên Chúa làm Bổn mạng vì Ngài là chính Đấng ban ơn chứ không phải Đấng chuyển cầu: “Không thể chọn Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng Bảo trợ, vì chính Thiên Chúa không tự giới hạn quyền bảo trợ của mình vào một nơi nào, cũng không phải là Đấng Bảo trợ ngang hàng với bất cứ ai khác”[13].

Nhận xét: Do đó, áp dụng qui định này, các thánh Bổn mạng tại các giáo xứ Việt Nam, nếu chưa được Bộ Phụng tự phê chuẩn, thì không thực sự là thánh Bổn mạng một cách đúng nghĩa và hợp pháp, và như vậy không được mừng kính trong phụng vụ[14].

3. Đặt tước hiệu khi nào? Có phải chỉ chính thức đặt khi cung hiến?

• Tước hiệu được đặt khi nhà thờ được làm phép hay cung hiến[15], và chỉ một tước hiệu mà thôi[16].

• Khác với việc chọn Thánh Bổn mạng, Tước hiệu có thể là “Thiên Chúa Ba Ngôi, hoặc từng Ngôi Vị Thiên Chúa, hoặc Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo danh cầu của một mầu nhiệm trong cuộc đời Người hoặc một danh xưng đã được sử dụng trong phụng vụ, hoặc là Chúa Thánh Thần”. Tước hiệu cũng có thể là Đức Trinh Nữ Maria với những danh hiệu đã được mừng kính trong phụng vụ, các thiên thần, các thánh. Các Á Thánh chỉ được chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh[17].

• Một khi đã cung hiến, thì không được thay đổi tước hiệu nữa. Giáo luật cũng minh định: “Mỗi nhà thờ phải có tước hiệu riêng và một khi đã được cung hiến thì không được thay đổi tước hiệu này nữa”[18].

4. Giá trị, quyền lợi của Tước hiệu và thánh Bổn mạng:

• Chỉ những thánh Bổn mạng đã được thiết đặt hợp lệ hoặc đã được chấp nhận từ lâu đời do một truyền thống rất xa xưa mới được mừng kính trong phụng vụ. Còn những thánh Bổn mạng theo nghĩa rộng, và chỉ tự phát do lòng đạo đức của dân chúng thì không được phép mừng kính trong phụng vụ[19].

• Được mừng lễ ở bậc trọng thể ngày mừng tước hiệu nhà thờ[20], cũng như ngày kỷ niệm cung hiến nhà thờ[21].

• Được mừng ở bậc trọng thể lễ Bổn mạng chính của giáo xứ, giáo phận tại chính nơi đó[22], cũng như lễ mừng Bổn mạng chính, Đấng sáng lập, và tước hiệu của Dòng tu, tu hội[23].

• Được mừng ở bậc lễ kính lễ Bổn mạng chính của giáo phận[24], và lễ kỷ niệm cung hiến nhà thờ Chánh Tòa tại các nhà thờ khác trong giáo phận, không phải nhà thờ Chánh Tòa[25].

5. Chọn tên Thánh Bổn mạng cho con

Đối với Kitô hữu, việc đặt tên thánh thường mang ý nghĩa để mỗi người tự nhắc nhở bản thân về cách sống, noi gương đạo đức của thánh bổn mạng, và cũng để được phù trợ nhờ lời cầu bầu của thánh nhân. Trong các gia đình, việc chọn bổn mạng cho con có nhiều điều thú vị.

Rửa tội cho trẻ, hẳn là kỷ niệm đáng nhớ của nhiều bậc cha mẹ và việc đặt bổn mạng cho con được chú tâm không ít.

Khi trẻ được lãnh nhận Bí tích Thêm sức, theo truyền thống nhiều nơi, các em lại nhận thêm tên thánh. Một số cha mẹ chọn người đỡ đầu với thánh quan thầy lúc rửa tội cho con. Một số khác lại để cho các con tự chọn.

Đối với các tân tòng, dường như có sự chọn lựa thánh bổn mạng khá đa dạng. Một số người theo ý kiến của cha xứ hoặc gia đình hướng dẫn, số còn lại thì muốn tự mình tìm tên thánh.

Trong mục vụ tại Việt Nam, các linh mục dòng góp vai trò quan trọng. Một số giáo xứ được các cha dòng gắn bó phục vụ qua nhiều đời. Dấu ấn của các vị trong lòng giáo dân rõ nét nên với chuyện đặt tên thánh bổn mạng trong gia đình, nhiều nhà ở các xứ đạo này quyết định lấy tên của dòng các linh mục phụ trách làm quan thầy cho con cháu.
Dù chọn thánh quan thầy nào, chắc chắn rằng mỗi bậc cha mẹ đều gửi gắm con cái mình cho các ngài với mong muốn các con nên người, có một đời sống đạo tốt lành, thánh thiện.

6. Khía cạnh mục vụ của việc mừng kính thánh Bổn mạng và lễ Tước hiệu

Về khía cạnh mục vụ liên hệ tới việc mừng các thánh Quan Thày hay các Tước hiệu, chúng ta có thể lưu ý những điểm sau đây:

1) Khi tôn kính các thánh, nhất là thánh quan thày, các tín hữu ý thức về ý nghĩa của sự thánh thiện được thể hiện nơi các thánh, như là một biểu lộ sư thánh thiện của Thiên Chúa Ba Ngôi, là Đấng thánh duy nhất. Một thể hiện cụ thể sự thánh thiện này là sống mầu nhiệm Chúa Kitô chết và sống lại trong đời sống của mình qua việc thực hiện các nhân đức tin, cậy mến và các lời khuyên phúc âm, cũng như các nhân đức khác, tới mức độ anh hùng qua các bậc sống của mỗi người. Như vậy sự thánh thiện trước tiên được hiểu như là một sự hiệp thông cao cả với Chúa Ba Ngôi và với Chúa Kitô phục sinh. Tất cả những việc lạ lùng nơi các thánh cần được nhìn trong khía cạnh này.

2) Cần giúp các tín hữu hiểu tín điều các thánh cùng thông công, đặc biệt do mối liên hệ giữa Thánh Bổn Mạng và các tín hữu. Sau cùng các thánh là gương sáng cho chúng ta trong việc đi theo Chúa Kitô và sống Tin Mừng, và các Ngài hướng chúng ta về cuộc sống mai sau. Công đồng chung Vaticanô II đã nói về điểm này như sau: “Bởi vậy, sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghỉ trong bình an Chúa Kitô không hề bị gián đoạn, trái lại Giáo hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được vững mạnh nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Quả thực, nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời củng cố toàn thể Giáo hội vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng hiện nay Giáo hội tại thế dâng lên Thiên Chúa, được cao cả hơn, và họ góp phần phát triển Giáo hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách. Được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha, bằng cách trình bày các công nghiệp đã lập được khi còn ở dưới thế, nhờ Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giêsu Kitô, khi họ đã phục vụ Chúa trong mọi sự, và hoàn tất nơi thân xác họ những gì còn thiếu sót trong các đau khổ của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân Thể Người là Giáo hội. Do đó, với tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn” (Hiến chế tín lý về Giáo hội, Ánh sáng muôn dân, số 49). Tuy nhiên các tín hữu phải ý thức là việc bầu cử của các thánh quan thày trước tòa Thiên Chúa để giúp chúng ta trước tiên noi gương các ngài trong việc sống theo thánh ý Thiên Chúa và sống Phúc âm của Chúa Kitô và sau đó lãnh nhận được các ơn lành khác phần xác phần hồn.

3) Khi cùng nhau chọn một vị Thánh làm Quan Thày, hành động này cho thấy tính cách hiệp thông của cộng đoàn, của giáo xứ ... Như vậy đây là một hành động có tính cách giáo hội học.

4). Việc chọn Thánh Quan Thày không phải chỉ để có một ngày mừng trong năm với những lễ lạt bên ngoài, nhưng là một thúc đẩy chúng ta sống theo gương thánh thiện của vị Thánh Quan Thày. Cộng đoàn giáo xứ, tập thể cần học hỏi về đời sống, các nhân đức của Thánh Bổn Mạng, và cầu nguyện với ngài để xin ơn trợ giúp.

5) Dịp mừng lễ Thánh Quan Thày là một lễ quan trọng trong sinh hoạt của cộng đoàn, nhất là về khía cạnh thiêng liêng. Vì thế nên lưu tâm tới việc tổ chức các việc đạo đức, như tuần ba ngày trước lễ, cổ võ việc lãnh nhận bí tích giải tội, tham dự Thánh lễ, cầu nguyện, học hỏi Kinh thánh, cấm phòng ....

6) Chính ngày lễ Thánh Quan Thày, dọn lễ nghi phụng vụ theo đúng tinh thần phụng vụ, tham dự thánh lễ, cử hành các giờ kinh phụng vụ, chầu Phép lành Mình Thánh. Tổ chức lễ nghi bên ngoài cho cả giáo xứ, tập thể. Đây là công việc chung, nên cần có sự tham gia của nhiều người, nhiều giới khác nhau, như các ban phụng vụ, thánh nhạc, khánh tiết, tổ chức tiệc trà, tiếp tân .... thay vì để cho ban lãnh đạo giáo xứ hay đoàn thể làm cả. Đây là dịp thể hiện sự hiệp nhất trong giáo xứ, tập thể.

Đa Minh Thái Bình, tổng hợp

Nguồn tin: https://www.simonhoadalat.com/

https://dcvxuanloc.net/

https://gpcantho.com/

https://giaophanvinhlong.net/

________________________________________
[1] X. Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và niên lịch, số 53, 4c.
[2] X. Ibidem, số 4d.
[3] X. Ibidem, số 4a ; X. Thánh Bộ Phụng tự, Huấn thị Lịch riêng, số 28, trong EV 3/2604.
[4] X. Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và niên lịch, số 53, 4d.
[5] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 1, trong EV 4/2341.
[6] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 2, trong EV 4/2342.
[7] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Huấn thị Lịch riêng, số 28, trong EV 3/2604.
[8] X. Ibidem, số 34, trong EV 3/2610.
[9] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 6, trong EV 4/2346.
[10] X. Ibidem, số 7, trong EV 4/2344.
[11] X. Ibidem, số 8, trong EV 4/2348.
[12] X. Ibidem, số 5, trong EV 4/2345.
[13] X. Ibidem, số 4, trong EV 4/2344 ; X. Thánh Bộ Phụng Tự, Huấn thị Lịch riêng, số 28, trong EV 3/2604.
[14] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 11, trong EV 4/2351 ; Idem, Huấn thị Lịch riêng, số 29, trong EV 3/2605
[15] Thánh Bộ Bí tích và Phụng tự, Ordo dedicationis ecclesiae et altaris, 29.5.1977, Praenotanda, số 4, trong EV 6/201.
[16] X. Ibidem, số 4, trong EV 6/201.
[17] X. Ibidem, số 4, trong EV 6/201 ; Huấn thị Lịch riêng, số 34, trong EV/2610.
[18] X. Giáo luật, đ. 1218 ; Theo luật cũ, dù chỉ mới làm phép chứ chưa cung hiến, cũng không còn được thay đổi tước hiệu nữa (x. CIC 1917, đ. 1168 § 1).
[19] X. Huấn thị Lịch riêng, số 29, trong EV 3/2605.
[20] X. Thánh Bộ nghi thức, Những Quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, số 59,4c.
[21] X. Ibidem, số 59,4b ; Thánh Bộ Bí tích và Phụng ự, Ordo dedicationis ecclesiae et altaris, Praenotanda, số 27, trong EV 6/228.
[22] X. Thánh Bộ nghi thức, Những Quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, số 59,4a.
[23] X. Ibidem, số 59,4d.
[24] X. Ibidem, số 59,8a.
[25] X. Ibidem, số 59,8b.