Is 50: 5-9a
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi thử thách đau thương.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không việc làm là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9a)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ:
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết sứ mạng được trao phó cho ông không là dễ dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui” (50: 5). Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả:
“Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa!
Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!” (50: 8).
2. Dung mạo của Đức Ki-tô:
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy dung mạo của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
1. Đức tin không việc làm là đức tin chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được một ví dụ cụ thể minh họa và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh chị em đau khổ của mình.
2. So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô:
Khi tuyên bố “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, phải chăng thánh Gia-cô-bê chủ trương một lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16; x. Rm 3: 20)? Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do Thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèng la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki-tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tĩnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bấy giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, nhưng em của ông là tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp-phê là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (x. Lc 9: 18-21; thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được dung mạo đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài:
Trước hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gio-an Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gio-an Tẩy Giả thật lạ lùng, nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn rất xa chân tính của Ngài.
Thật ra, câu hỏi của Đức Giê-su: “Người ta nói Thầy là ai?” chỉ là câu hỏi khởi động cuộc nói chuyện nhằm giúp các môn đệ cởi mở tấm lòng với Thầy, nhưng câu hỏi mà Ngài muốn hỏi các ông chính là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm.
Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô”. Tại thánh Mát-thêu, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Ki-ô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Tại thánh Lu-ca, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20). Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài. Theo Tin Mừng Mác-cô, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô” là đỉnh cao của phẩn thứ nhất về “mầu nhiệm Đấng Ki-tô” (Mc 1-10) và lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39) là đỉnh cao của phần thứ hai về “mầu nhiệm Con Thiên Chúa” (Mc 11-16).
Ngay lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Thiên Sai”. Bí mật Đấng Thiên Sai này thường liên quan đến các phép lạ, giờ đây chính là chân tính Thiên Sai của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Thiên Sai (Mê-si-a) theo nghĩa một vị vua toàn thắng trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Thiên Sai hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giê-su không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.
4. Phản ứng của thánh Phê-rô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí của mình, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Thiên Sai khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình thương yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giê-su:
Đức Giê-su phản ứng rất quyết liệt. Thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa (Mt 4: 8-9; Lc 4: 5-7); Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10; x. Mc 8: 33), nhưng với thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh phải hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki-tô hữu, vào con đường đau khổ để đạt đến vinh quang này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa là cuộc sống trần thế tạm thời này vừa là cuộc sống muôn đời mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, cũng như hôm nay.
Lm. Inhaxiô Hồ Thông