NỘI DUNG CHÍNH


Lời mở đầu

Tội phạm (delitto) và hình phạt (sanzione): một số điểm bàn về bản chất và phạm vi thẩm quyền cưỡng chế của Giáo Hội

Phân loại các hình phạt trong Giáo Hội – các vạ

Áp dụng các hình phạt và chủ thể có quyền bãi bỏ chúng

Các tội phạm bị trừng phạt bằng hình phạt tiền kết khác

Tóm tắt về các giới hạn trong việc áp dụng các hình phạt và các tự động trong việc sử dụng hình phạt

Sự bất hợp luật và ngăn trở: một bảo đảm cho Thân Thể Giáo Hội

Quy định theo loại hình và miễn chuẩn

Lời mở đầu

Với sự kiện Năm Thánh sắp tới, trước hết là với tư cách những tín hữu, sau đó là tư cách của các Linh mục, như những “Những Người Hành Hương Của Hy Vọng” và Dân Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, chúng ta lại một lần nữa được mời gọi để suy ngẫm về một trong những khía cạnh không thể tránh được của sự yếu đuối nơi con người, dù đã được cứu chuộc và thánh hiến bởi ân sủng Bí tích Rửa Tội: tội lỗi như một sự kiện không chỉ mang tính cá nhân mà cũng mang tính Giáo Hội nữa. Cụ thể hơn, chúng ta tự chất vấn chính mình trong việc xử lý tội lỗi khi Giáo Hội nhận ra đó là một sự phạm pháp (theo Giáo luật).

Trong bài viết này, tôi muốn cố gắng đưa ra một đóng góp ngắn gọn và ít mang tính kỹ thuật hơn so với những gì đã đề xuất trong quá khứ, những bài viết mà tôi xin trích dẫn để những ai cần tìm hiểu sâu hơn có thể tham khảo. Tôi vẫn tin rằng một Linh mục giải tội tốt không thể hoàn toàn không quan tâm đến, ngoài sự nhạy bén cá nhân đối với ngôn ngữ pháp lý, mà còn với những suy tư chuyên sâu về vấn đề này. Mục tiêu của tôi là thu hút sự chú ý và khuyến khích một sự tìm hiểu cá nhân về các lĩnh vực trong Giáo luật, đồng thời mở rộng cho những ai không phải là “người trong ngành”, cân nhắc những nhu cầu mục vụ cùng với những yếu tố kỹ thuật.

Trong bài chia sẻ này, tôi sẽ bắt đầu, như đã được yêu cầu, bằng việc khám phá việc sử dụng hình phạt chữa trị (hay cũng gọi là dược hình) (sanzioni medicinali) đối với tín hữu (sự áp dụng và trên hết là tha thứ), sau đó chuyển sang phân tích sự bất hợp luật (irrregolarità) và những ngăn trở (impedimenti) đối với việc lãnh nhận và thực thi các Bí Tích Truyền Chức Thánh.

Trước hết, tôi muốn nhấn mạnh rằng trước khi bắt đầu suy tư, cần phải ý thức và tự do làm mới lại sự gắn kết trong đức tin với quyền năng của Lòng Thương Xót Thiên Chúa - điều này áp dụng cho tất cả, dù là người tiếp nhận, người thực thi hay người giải thích luật - đặc biệt là trong đời sống Bí tích.

Chúng ta có thực sự đủ ý thức rằng khía cạnh hết sức tế nhị này đòi hỏi một sự quan tâm đặc biệt, nhằm tránh những “can thiệp vượt thẩm quyền” không phù hợp và nguy hiểm không? Thực vậy, việc quan tâm đến “sức khỏe” của Thân Thể Giáo Hội, đặc biệt là trong việc xử lý và sửa chữa những tổn thương bất công gây ra, thường (và nên như vậy!) chỉ thuộc phạm vi của sự chăm sóc mục vụ thông thường, vốn chủ yếu sử dụng các phương tiện luân lý và/hoặc Bí tích.

Tuy nhiên, có những tình huống mà Thẩm quyền Giáo Hội phải can thiệp vào những hành động thực sự là phạm pháp, những hành động này tự bản chất làm tổn hại, thậm chí là tổn thương nghiêm trọng đối với sự hài hòa hữu hình của Thân Thể Giáo Hội, quyền lợi của cá nhân, đặc biệt là của người tín hữu; hoặc làm tổn hại những giá trị thiêng liêng và luân lý quan trọng đối với Giáo Hội. Những hành động này, mặc dù có thể bị coi là tội lỗi từ quan điểm luân lý, cần phải được tách biệt rõ ràng với những “tội lỗi đơn thuần” (semplici), nếu có thể nói như vậy: vì chúng là vi phạm cụ thể các quy định của Thiên Chúa và/hoặc các quy định giáo luật, được bảo vệ bởi các hình phạt pháp lý, cụ thể là hình sự, do Đấng làm luật Giáo Hội quy định (xem ví dụ các điều 1315, khoản 1 và 1399). Những hành động này đòi hỏi một can thiệp cụ thể và khác biệt, vì chúng vượt ra ngoài chỉ là chiều kích thiêng liêng hay luân lý, xâm nhập vào lĩnh vực pháp lý và Giáo luật.

Trong một bối cảnh mà chúng ta thấy sự gia tăng (hoặc ít nhất là nhận thức về sự gia tăng này đã được phóng đại và làm nổi bật qua các phương tiện truyền thông) của những hành vi sai trái và tội lỗi, thường không được nhận thức là như vậy ngay cả trong cộng đồng tín hữu, điều quan trọng là Giáo Hội cần đánh giá lại một cách cẩn thận, một lần nữa, liệu và trong phạm vi nào việc áp dụng các biện pháp trừng phạt hiện nay có thực sự là giải pháp thích hợp để đối phó với sự suy thoái đạo đức và thiếu sót trong hành động của các tín hữu đã được rửa tội. Trong việc này, kinh nghiệm của các Linh mục giải tội và phản hồi (feedback) từ họ nhận được sẽ là một điểm tham chiếu quan trọng[1]. Việc ghi nhận sự gia tăng trong việc áp dụng các biện pháp chế tài hình sự – một xu hướng trong hai thập kỷ qua, được thúc đẩy bởi các quyết định của các Triều đại Giáo hoàng gần đây, đặc biệt liên quan đến việc cải cách Quyển VI của Bộ Giáo luật – cần được cân nhắc cùng với nhu cầu coi các biện pháp này như một giải pháp cuối cùng trong việc quản trị cộng đoàn Giáo Hội, đồng thời đề cao các biện pháp bảo vệ và đảm bảo vốn là đặc trưng của luật hình sự trong Giáo Hội.

Bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào tháng 11 năm 2019 tại Đại hội Quốc tế lần thứ 20 của Hiệp hội Luật Hình sự Quốc tế (AIDP)[2] - một hội nghị là biểu hiện của hiệp hội khoa học lâu đời nhất thế giới với các luật gia chuyên gia trong lĩnh vực hình sự - đã đưa ra những gợi ý quý giá cho các suy nghĩ đặc biệt liên quan đến lĩnh vực Giáo Hội, và đặc biệt là các vấn đề Giáo luật, đặc biệt khi ngài kêu gọi cộng đồng pháp lý quốc tế cố gắng để áp dụng và giải thích luật hình sự theo cách không chỉ nhằm trừng phạt, mà còn hướng tới một công lý phục hồi, có khả năng hòa giải và sửa chữa.

Điều này không phải là một điều mới mẻ, rõ ràng rằng: công lý phục hồi là một khái niệm quen thuộc trong giáo lý Giáo Hội và nó ăn sâu vào truyền thống của Giáo Hội, như được thể hiện qua việc áp dụng hình phạt chữa trị (dược hình) (pene medicinali) trong Giáo luật, nhằm mục đích cải hối tội nhân, và đó chính là đối tượng đầu tiên trong phần thảo luận của chúng ta.

Lý thuyết cơ bản của hình phạt trong Giáo Hội dựa trên những nguyên lý tuyệt vời của việc bảo vệ sự toàn vẹn của Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô và sự hiệp thông trong công lý, với mục tiêu cứu chuộc và cứu rỗi toàn diện con người: hành động này bao gồm cả tội nhân và những người đã bị tổn thương, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi những hành động bất công làm tổn hại đến những tài sản có giá trị pháp lý.

Công lý phục hồi (hay “công lý mang tính tái thiết”), như Đức Giáo Hoàng gợi ý, đặt con người làm trung tâm hành động của mình, dù đó là nạn nhân hay người chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội, với mục tiêu khôi phục những mối quan hệ nhân bản và xã hội đã bị tổn hại bởi tội ác. Tầm nhìn này đòi hỏi một sự thay đổi triệt để về mô hình, đặt trọng tâm nơi con người của Chúa Giêsu, đặc biệt là trong sự phục sinh của Ngài, làm nền tảng cho sự hòa giải giữa Thiên Chúa và con người. Điều này có vẻ hiển nhiên đối với chúng ta là những người có đức tin, nhưng thực tế không phải vậy. Hình phạt trong Giáo luật không bao giờ có thể là mục đích tự thân, mà chỉ có thể được biện minh như một công cụ của công lý theo quan điểm Kitô giáo, luôn phải hướng đến việc cứu chuộc và phục hồi phẩm giá làm con của người tín hữu[3].

Vì có tác động mạnh mẽ đối với tín hữu và các quyền lợi cơ bản của họ, việc áp dụng thẩm quyền hình sự không thể thiếu phản ánh giáo huấn Tin Mừng. Mục tiêu chính của hoạt động mục vụ nên là giải thoát tín hữu khỏi những gánh nặng, đặc biệt là những gánh nặng mang tính pháp lý, đang cản trở họ trên con đường hoán cải và một đời sống mới trong Chúa Kitô.

Cám dỗ hướng tới một nền công lý mang tính trừng phạt hoặc hữu dụng về mặt xã hội và biểu tượng, khi được coi là kiểu mẫu “ngăn ngừa điều xấu” (apotropaica), luôn hiện diện: đó là một mô hình cần phải nhường chỗ cho công lý mang tính phục hồi, nơi mà đối thoại, tha thứ[4] và hòa giải trở thành các yếu tố trung tâm. Mô hình thứ hai này cần ưu tiên, đặc biệt trong thực hành cụ thể, người tín hữu và phẩm giá của họ cần được tôn trọng, phù hợp với các nguyên tắc về bác ái và ưu tiên con người, vốn là nền tảng đối với Giáo Hội. Và ngay cả người phạm tội cũng là một tín hữu. Công lý mang tính phục hồi nhấn mạnh giá trị của đối thoại và sự gặp gỡ giữa nạn nhân và người phạm tội, đề xuất một hành trình hòa giải, chữa lành và tái hội nhập, có thể mang lại sự thấu hiểu lẫn nhau và sự đền bù không mang tính cơ học hay hình thức đối với tổn hại đã gây ra. Cách tiếp cận này thực sự đòi hỏi một sự thay đổi mô hình trong chính khái niệm về công lý chính thức của Giáo Hội và cách áp dụng nó, cần được vun trồng ngày càng nhiều như một yếu tố của hòa giải và xây dựng lợi ích chung[5]. Điều này dựa trên nguyên tắc diễn giải nền tảng của toàn bộ Luật Giáo Hội Công Giáo chúng ta, đó là: salus animarumlex suprema in Ecclesia  - Cứu rỗi các linh hồn là luật tối thượng trong Giáo Hội.

 

Tội phạm (delitto) và hình phạt (sanzione): một số điểm bàn về bản chất và phạm vi thẩm quyền cưỡng chế của Giáo Hội

Vì lẽ đó, chúng ta đang di chuyển trong phạm vi rất cụ thể của tội phạm[6] và hình phạt, do đó là các biện pháp quyền lực có tính chất trừng phạt và kỷ luật, những biện pháp này tước bỏ quyền/lợi ích/đặc quyền/v.v… của người phạm tội – người tín hữu được công nhận là như vậy qua một thủ tục hợp pháp[7] – hoặc, ít nghiêm trọng hơn, là việc tước bỏ quyền thực hiện các quyền đó. Để phác thảo một phạm vi tổng quát về vấn đề này, chúng ta có thể nói rõ hơn rằng các hình phạt (và điều này đặc biệt đúng đối với các hình thức chỉ trích, liên quan đến đời sống Bí tích) đối với tín hữu sẽ dẫn đến việc hạn chế/tước bỏ các quyền/đặc quyền, do đó là việc hạn chế/tước bỏ hoàn toàn hoặc một phần quyền lợi từ các tài sản tạm thời và/hoặc tinh thần; thực tế, là việc tước bỏ quyền tự do thực hiện chúng.

Do đó, chỉ những hành vi phạm tội thực sự mới có giá trị trong cuộc thảo luận này, tức là những hành động làm tổn hại đến quyền lợi của con người, đặc biệt là của tín hữu hoặc những tài sản quan trọng của Giáo Hội. Thường thì từ góc độ phán xét luân lý, chúng cũng là những hành động tội lỗi, nhưng cần phải phân biệt rõ ràng chúng với những “tội lỗi đơn thuần”, bởi vì chúng là những tội phạm thực sự, vì hành động này cấu thành một sự vi phạm bên ngoài có thể nhận thấy của các điều luật thuộc Thiên luật hoặc Giáo luật, được bảo vệ bởi các biện pháp bảo vệ hình sự từ phía nhà lập pháp (xem ví dụ điều 1315, khoản 1 và 1399).

Những hành vi phạm tội có một bản chất đặc trưng của chúng, vì chúng ảnh hưởng đến tài sản và sự năng động của sự hiệp thông trong Giáo Hội hữu hình theo những cách khác với các hành động (chỉ thuần túy có thể gọi là) tội lỗi, và vì thế yêu cầu một can thiệp chính thức và cụ thể[8] từ phía Cơ quan có thẩm quyền của Giáo Hội[9] so với việc can thiệp bình thường mà chúng ta đã đề cập ở trên.

Can thiệp này có thể diễn ra trong tòa ngoài hoặc trong tòa trong và luôn liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau[10]. Trong bối cảnh hình sự, rõ ràng thẩm quyền của Giáo Hội là độc nhất, thể hiện không chỉ trong phạm vi công cộng và bên ngoài, nơi mà quyền tài phán cưỡng chế-hình sự của nhà nước hoạt động, mà còn trong tòa trong. Chính trong tòa trong, ta thấy rõ đặc trưng năng quyền quản trị của Giáo Hội (điều 129), là biểu hiện của một chức năng giải thoát đúng nghĩa, dựa trên trách nhiệm của lương tâm cá nhân. Việc thực hiện quyền quản trị[11] này được thể hiện qua các hành động pháp lý bí mật, có nghĩa là không công khai, khác biệt với các bí tích (như việc xưng tội và tha thứ bí tích, là biểu hiện của năng quyền bí tích của chức tư tế)[12].

Sự phức tạp của bản chất con người và sự năng động của lương tâm thực sự đòi hỏi một số hành vi bên ngoài, có thể được nhận thấy và cảm nhận bởi cộng đoàn Giáo Hội, có thể mang lại một ý nghĩa không chỉ luân lý mà còn cả pháp lý, đặc biệt là trong bối cảnh hình sự. Những hành vi này có thể trở thành đối tượng của các hình phạt không chỉ qua một quy trình pháp lý chính thức mà còn không cần phải có một việc thực hiện cụ thể và trực tiếp quyền tài phán bên ngoài, mà thay vào đó, chủ yếu dựa vào các quy định pháp lý chung liên quan trực tiếp đến lương tâm cá nhân của tín hữu, ràng buộc họ trong một chiều kích nội tâm và sâu sắc cá nhân. Một ví dụ là các hình phạt tiền kết (latae sententiae), sẽ được bàn thêm chi tiết trong phần dưới đây.

Trong hoàn cảnh này, có thể nói lương tâm của tín hữu chính là người xét xử, giữ phán xét trong một phạm vi riêng tư, kín đáo và sâu kín, mà không cần phải xuất hiện trong phạm vi công cộng. Trong tòa trong, thường thì chính người vi phạm sẽ tự tiết lộ, thường là qua việc Xưng tội Bí tích. Điều này giải thích sự quan tâm đặc biệt của các Linh mục giải tội đối với những trường hợp này, vì vấn đề vẫn nằm trong phạm vi tòa trong, không phải là đối tượng kiểm tra qua các hành động có giá trị pháp lý quan trọng hoặc bằng chứng hợp pháp bên ngoài. Linh mục giải tội, ngoài việc quản lý Bí tích Hòa giải, cũng nắm giữ một thẩm quyền pháp lý đặc biệt của Giáo Hội. Ngài không chỉ tha thứ tội lỗi nhân danh Thiên Chúa và Giáo Hội mà trong những trường hợp đặc biệt, ngài cũng có thể thu hồi các hình phạt hình sự hoặc ban ân xá đối với các luật lệ của Giáo Hội.

Sự phân biệt vừa nêu rõ hai chức năng của chức vụ Linh mục: khả năng xóa bỏ hình phạt Giáo luật, một hành động pháp lý chỉ được trao cho những người có năng quyền này, khác với khả năng Bí tích Tha tội, được trao cho tất cả các Linh mục trong Thánh lễ Truyền chức.

Trong phạm vi tòa trong, tín hữu có thể bị áp dụng các hình phạt, và như sẽ được trình bày sau, cũng có thể gặp phải các ngăn trở hoặc bất hợp luật. Những vấn đề này không hoàn toàn thuộc về phạm vi hình sự, nhưng liên quan đến tính hợp pháp của việc tiếp nhận các Bí tích Truyền Chức Thánh và việc thực hiện hợp pháp chúng. Những vấn đề liên quan đến các ngăn trở và bất hợp luật này sẽ được xem xét một cách ngắn gọn ở cuối phần thảo luận.

Phân loại các hình phạt trong Giáo Hội – các vạ

Như một điểm khởi đầu, cần nhấn mạnh rằng các linh mục phải liên tục dấn thân vào “sứ vụ hòa giải”, như được chỉ ra trong 2 Cor 5, 20-21, và rằng Giáo Hội ưu tiên các công cụ mục vụ để giải quyết những hành vi sai lệch của tín hữu, vì chúng có khả năng mang lại cách tiếp cận thận trọng và cá vị hơn, mặc dù có thể dường như ít nhanh chóng hoặc mạnh mẽ hơn.

Sứ vụ hòa giải đòi hỏi một cách tiếp cận chín chắn và ý thức đối với khía cạnh hình phạt của Giáo Hội, đặc biệt trong bối cảnh tòa trong, và bao gồm cả bản chất của các hình phạt lẫn quá trình áp dụng chúng. Mặc dù thoạt nhìn, đây có thể là một vấn đề về các thủ tục chính thức xa rời sự chăm sóc mục vụ, nhưng thực tế, nó rất quan trọng để đảm bảo rằng các biện pháp hình phạt là thực sự phù hợp và hiệu quả. Nhận thức này giúp cụ thể hóa khái niệm salus animarum (sự cứu rỗi linh hồn) như nguyên lý giải thích tối cao của luật trong Giáo Hội, như được nhấn mạnh trong điều khoản cuối cùng của Bộ Giáo luật (điều 1752), tránh các cách giải thích nông cạn hoặc giản lược.

Các hình phạt hình sự truyền thống được phân biệt thành các dược hình (vạ) và hình phạt “trả thù”, thuật ngữ được sử dụng trong Bộ luật Pio-Benedictino. Cho đến nay, điều 1312 vẫn khẳng định sự phân biệt cơ bản này giữa các dược hình hoặc vạ[13] (pene medicinali o censure) (khoản 1, mục 1: sự vạ tuyệt thông, vạ ngưng chức và vạ đình chỉ) và thục hình (hình phạt đền bù) (pene espiatorie) (khoản 1, mục 2). Định nghĩa về "vạ" trong Bộ luật Pio-Benedictino được đưa ra trong điều 2241, khoản 1: “Censura est poena qua homo baptizatus, delinquens et contumax, quibusdam bonis spiritualibus vel spiritualibus adnexis privatur, donec, a contumacia recedens, absolvatur - Vạ là hình phạt mà qua đó một người đã chịu Phép Rửa, phạm tội và cố tình ngoan cố, bị tước một số quyền lợi thiêng liêng hoặc các quyền lợi gắn liền với sự thiêng liêng, cho đến khi họ từ bỏ sự ngoan cố và được tháo giải.” Một khái niệm vẫn hữu ích, trong trường hợp không có định nghĩa cụ thể về luật. Từ Công Đồng Latêranô IV năm 1215, các vạ được xác định rõ ràng là ba hình phạt duy nhất, có mặt trong Bộ Giáo luật Latinh: vạ tuyệt thông (scomunica) (điều 1331), vạ cấm chế (hay ngưng chức) (interdetto) (điều 1332), và vạ huyền chức (hay đình chỉ) (sospensione) (điều 1333-1334). Hai hình phạt đầu tiên chủ yếu liên quan đến việc cấm nhận và/hoặc cử hành các Bí tích. Vạ huyền chức, vốn trước đây chỉ dành cho các giáo sĩ[14], chủ yếu cấm thực hiện các hành vi thể hiện năng quyền của chức thánh hoặc thẩm quyền quản trị, cũng như các quyền hoặc chức năng liên quan đến nhiệm vụ.

Sự phân biệt giữa hai loại hình phạt Giáo luật nằm ở mục đích khác nhau của chúng, dù đặc điểm này không phải là duy nhất. Vạ nhằm hướng đến việc sửa đổi người vi phạm và có thể được mô tả, theo thuật ngữ đã trở nên quen thuộc, là mang mục đích phòng ngừa đặc biệt (finalità special-preventiva[15]): điều này có nghĩa là chúng nhắm đến việc kích thích sự thay đổi trong hành vi của người phạm tội. Ngược lại, thục hình[16] (hình phạt đền bù) tập trung vào việc đền tội, tức là sửa chữa thiệt hại do hành động phạm tội gây ra và khôi phục lại công lý, cũng như bù đắp những gương xấu đã gây ra cho cộng đoàn Giáo Hội. Loại hình phạt này tuân theo một nguyên tắc biện minh mà người ta có thể gọi là mang tính chất bồi thường và phòng ngừa chung (retributivo e general-preventivo).

Sự khác biệt giữa các hình phạt này cũng thể hiện trong thời gian áp dụng chúng[17]. Các vạ hay dược hình gắn liền với thái độ chủ quan của người phạm tội và, vì lý do này, thường được áp dụng trong một khoảng thời gian không xác định, tức là cho đến khi người phạm tội được sửa đổi[18]. Ngược lại, các thục hình có thể được xác định trong một khoảng thời gian xác định, không xác định hoặc thậm chí vĩnh viễn, tùy theo quy định của điều 1336, khoản 1, và điều này không phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người vi phạm.

Theo tinh thần cải cách được thúc đẩy bởi Công Đồng Vatican II, nguyên tắc rằng các hình phạt Giáo luật chủ yếu nên là loại hình phạt hậu kết (ferendae sententiae), tức là được áp dụng và gỡ bỏ thông qua một thủ tục cụ thể của tòa ngoài, đã được duy trì. Tuy nhiên, việc thiết lập các hình phạt tiền kết (latae sententiae) hay tự động, vốn ban đầu được hiểu là dược hình (medicinale) và nay, trong một phạm vi hạn chế, cũng có thể là thục hình, vẫn được bảo lưu cho những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng[19]. Các hình phạt tiền kết vẫn là một trụ cột của pháp luật Giáo Hội Latinh[20], mặc dù có ý kiến của một số nhà giải thích[21] đã nêu ra sự nghi ngờ, nhằm giới hạn hiệu quả của các hình phạt này chỉ trong tòa ngoài, nơi chỉ cung cấp các bảo đảm cho việc thực thi quyền lực một cách chính xác và có trách nhiệm, làm cho nó trở thành không gian “tự nhiên” cho các hành động quản lý Giáo Hội mang tính chất trấn áp.

Sự khác biệt về mục đích giữa các hình phạt latae sententiae và ferendae sententiae vẫn tồn tại trong chế độ pháp lý riêng biệt của chúng. Giáo luật khuyến khích sự điều độ trong việc thiết lập tất cả các hình phạt, như được chỉ ra trong điều 1317, nhấn mạnh sự cần thiết phải áp dụng chúng chỉ khi thật sự cần thiết cho lợi ích của kỷ luật Giáo Hội, và đặc biệt đối với các hình phạt tiền kết, như được quy định trong điều 1318, vì tính nghiêm trọng và tác động tự động, không phân biệt đối tượng của chúng đối với người vi phạm, trái ngược với các hình phạt hậu kết, cơ chế áp dụng của chúng cho phép đánh giá chính xác và phù hợp với tình huống.

Áp dụng các hình phạt và chủ thể có quyền bãi bỏ chúng

Khi đi vào chi tiết hơn về các quy định liên quan đến các vạ, việc thành lập gần một nghìn năm của các Kinh sĩ giải tội (Canonici Penitenzieri) tại các nhà thờ Chính Tòa hoặc các nhà thờ có cộng đoàn kinh sĩ (và nếu không có, thì do Linh mục được Giám mục ủy thác) chứng tỏ mối liên hệ giữa vấn đề hình phạt này và vị trí của tòa giải tội.

Linh mục giải tội thực thi và áp dụng quyền bính của Giáo Hội trong việc hòa giải và sử dụng lòng thương xót không chỉ trong việc thực thi năng quyền bí tích của chức thánh, mà còn trong quyền tài phán của Giáo Hội trong tòa trong. Trong bối cảnh này, điều 508 của Bộ Giáo luật quy định rằng các Linh mục giải tội có quyền không thể ủy thác, theo nhiệm vụ của mình, để tha tội trong tòa án bí tích đối với các hình phạt tiền kết chưa được tuyên bố[22] và không thuộc quyền của Tòa Thánh. Do đó, cần phải làm rõ phạm vi của sự dành riêng này.

Để làm rõ phạm vi của việc dành quyền miễn giảm hình phạt cho Tòa Thánh trong một số trường hợp (cần làm rõ rằng chính tội lỗi chứ không phải là hình phạt được dành riêng cho Tòa Thánh... và quyền miễn giảm này phải được hiểu theo nghĩa chặt chẽ, điều 1354, khoản 3), cần lưu ý ngay rằng đây không phải là một quy định mang tính tuyệt đối: chẳng hạn, trong các trường hợp khẩn cấp hoặc nguy tử. Trong trường hợp có sự dành quyền và do đó chuyển giao vụ việc lên Tòa Thánh, cơ quan xử lý các trường hợp tại tòa ngoài (foro esterno) là Bộ Giáo Lý Đức tin, hoặc có thể là Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Các Tích; đối với tòa trong (foro interno), cơ quan xử lý là Tòa Ân Giải Tối Cao[23].

Một trong những trường hợp này, có tổng cộng sáu trường hợp và tất cả đều bị vạ tuyệt thông, được quy định trong điều 1370, khoản 1 của Bộ Giáo Luật, và liên quan đến "người nào sử dụng bạo lực thể xác chống lại Đức Giáo Hoàng". Trường hợp thứ hai của vạ tuyệt thông tiền kết được quy định ngay phía sau, tại điều 1379, khoản 3[24], liên quan đến “người nào đã dám truyền chức thánh cho một người nữ, thì người đó và cả người nữ mà đã dám lãnh nhận chức thánh”. Sau đó, một trường hợp khác được tìm thấy trong điều 1382, khoản 1: hình phạt này áp dụng cho “người nào ném bỏ Mình Máu Thánh Chúa, hoặc lấy và giữ với mục đích phạm thánh”, và do đó "chịu vạ tuyệt thông tiền kết (scomunica latae sententiae) dành riêng cho Tòa Thánh”.

Ngoài ra, có một vạ tuyệt thông tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh đối với Linh mục tha tội cho "người đồng phạm trong tội lỗi chống lại điều răn thứ sáu", hoặc chính xác hơn, nếu Linh mục tha tội, vì sự tha tội này là vô hiệu trừ khi được ban trong tình huống nguy hiểm đến tính mạng, cho người mà Linh mục đã có quan hệ tình dục (các điều 1384 và 977). Một trường hợp khác thuộc về hình phạt này là Linh mục “vi phạm ấn tín bí tích” (điều 1386, khoản 1); một trường hợp khác liên quan đến Giám mục “không có sự ủy quyền của Đức Giáo Hoàng” trong việc truyền chức cho một Giám mục khác: cả hai, người truyền chức và người nhận chức, “sẽ chịu vạ tuyệt thông tiền kết dành riêng cho Toàn Thánh” (điều 1387).

Các tội phạm bị trừng phạt bằng hình phạt tiền kết khác

Các tội phạm khác chịu hình phạt bởi hình phạt tiền kết (censure latae sententiae) đối với vạ tuyệt thông (ví dụ: phá thai chủ động, người phiên dịch trong Bí tích Giải tội để lộ bí mật phạm tội của hối nhân), đối với vạ cấm chế hoặc vạ huyền chức (bạo lực chống lại Giám mục, cử hành Bí tích Thánh Thể hoặc Bí Tích Giải tội một cách bất hợp pháp, mưu toan kết hôn của giáo sĩ (attentato matrimonio del chierico), tố cáo sai về hành vi xúi giục phạm điều răn thứ sáu (falsa denuncia di sollecitazione), v.v.) luôn có thể được tha vạ bởi Đấng Bản quyền hoặc Linh mục được trao quyền thích hợp (xem rõ hơn tại điều 1355).

Chúng ta chuyển từ quyền tha vạ trong các trường hợp dành riêng cho Tòa Thánh sang vấn đề chung về các chủ thể được phép tha các hình phạt Giáo luật.

Các Kinh sĩ giải tội (điều 508) của các nhà thờ Chính Tòa và nhà thờ cộng đoàn kinh sĩ (chiesa collegiale), những người có quyền này không thể ủy thác và là những người đầu tiên trong nhiệm vụ được ủy thác có thể tha tội trong tòa án bí tích đối với các hình phạt tiền kết chưa được tuyên bố và không được dành riêng cho Tông Tòa. Cũng vậy, các Linh mục Tuyên úy tại các nhà tù, bệnh viện và các tàu thủy, những người cũng có quyền tương tự (điều 566 §2). Tại Roma, còn có các linh mục giải tội tại bốn Đại Vương Cung Thánh Đường[25] và các Linh mục thuộc Tòa Ân Giải Tội Tối Cao.

Hơn nữa, tất cả các Nhà thừa sai của lòng thương xót, khoảng 550 người, đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm trong Năm Thánh gần đây (năm 2016) và hiện vẫn tiếp tục sứ vụ.

Ngoài ra, trong trường hợp trong Bí tích Giải tội, bất kỳ Giám mục nào - và thậm chí cả Giám mục sở tại đối với các tín hữu của mình, những người ở trong lãnh thổ của mình hoặc những người đã phạm tội - có thể tha tất cả các hình phạt tiền kết (bao gồm cả thục hình) chưa được tuyên bố và không dành riêng, miễn là chúng được thiết lập bằng luật (xem điều 1355, khoản 2) chứ không phải bằng mệnh lệnh.

Cũng cần lưu ý rằng bất kỳ Linh mục[26] nào cũng có thể tha tội trong trường hợp một tín hữu đang ở trong tình huống nguy hiểm đến tính mạng; trong trường hợp này, Linh mục có thể tha tội hợp lệ và hợp pháp cho tín hữu, giải thoát họ khỏi mọi hình phạt được dành riêng hoặc không dành riêng, đã tuyên bố hay chưa tuyên bố, cả ferendae sententiae hay latae sententiae (điều 976)[27].

Điều đặc biệt cần lưu ý là điều 1357, khoản 1, quy định về “trường hợp khẩn cấp” (casus urgentior)[28]có thể áp dụng cho tất cả các Linh mục giải tội.

Về nguyên tắc, trong trường hợp này, “năng quyền tha hình phạt trong tòa trong được dự liệu không phải vì đặc tính đặc thù của chủ thể thực hiện việc tha hình phạt, mà là vì nhu cầu chăm sóc lợi ích của các tín hữu trong một hoàn cảnh đặc biệt, đó là trường hợp khẩn cấp nhất: tình trạng tội lỗi và sự ngăn cản do hình phạt quy định khiến người tín hữu không thể lãnh nhận các Bí tích. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến người tín hữu đến mức họ, sau khi đã ăn năn, cảm thấy khó khăn khi phải chờ đợi trong thời gian cần thiết để nhận được sự giải miễn hình phạt trong tòa ngoài. Cụ thể, điều khoản luật này nhằm vượt qua mâu thuẫn có thể xảy ra giữa sự sẵn sàng ăn năn của tín hữu, cùng với ước muốn lãnh nhận sự tha thứ bí tích, và lệnh cấm lãnh nhận các bí tích do hình phạt Giáo luật quy định...”[29].

Do đó, khi các hình phạt theo luật hoặc mệnh lệnh là vạ tuyệt thông và vạ cấm chế[30] tiền kết (latae sententiae), ngay cả khi các tình huống bị trừng phạt là công khai hoặc được dành riêng cho các cơ quan của Tòa Thánh, Linh mục giải tội đối diện với tín hữu cảm thấy việc phải chịu hình phạt là quá nặng nề[31] (durum sit) sẽ có quyền tha vạ trong tòa trong của bí tích. Quyền này, được gọi là quyền tha vạ trong “trường hợp khẩn cấp”, được công nhận cho mọi Linh mục giải tội, miễn là các hình phạt trên (hai vạ trên) chưa được tuyên bố, nhằm duy trì sự phân biệt giữa hai tòa án: tòa trong và tòa ngoài. Điều 1357, khoản 2 quy định rằng Linh mục tha tội phải yêu cầu tín hữu thực hiện bốn nghĩa vụ[32], đặc biệt là việc yêu cầu cơ quan cấp trên xác nhận việc tha vạ đã được thực hiện. Việc yêu cầu cơ quan cấp trên là bắt buộc và nếu không thực hiện sẽ bị trừng phạt bằng việc tái phạm cùng một hình phạt đã được tha[33].

Không có việc thu hồi hình phạt đã áp đặt, mà chỉ là sự nới lỏng tạm thời các hình phạt pháp lý, luôn trong sự tôn trọng lợi ích tối thượng là sự cứu rỗi các linh hồn, mỗi khi trong Giáo Hội xuất hiện mong muốn không từ chối cho các tín hữu những trợ giúp cần thiết, đặc biệt khi họ rơi vào những tình huống ngoại tại mà họ không có trách nhiệm, thậm chí có thể không hề hay biết, những tình huống này có thể làm tổn hại đến sự cứu rỗi linh hồn họ. Nguyên tắc này được áp dụng một cách cụ thể khi một vạ tiền kết tác động đến thừa tác viên chức thánh, người mà các tín hữu hợp pháp yêu cầu chăm sóc mục vụ, đặc biệt là việc lãnh nhận các Bí tích. Trong trường hợp này, những cấm chỉ đối với việc thi hành tác vụ (prohibitiones), nhất là những cấm chỉ không công khai, có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến chính các tín hữu. Vì lý do này, luật hiện hành quy định về việc tạm đình chỉ lệnh cấm (prohibitio) áp đặt trên Linh mục, ngăn cản ngài cử hành các Bí tích hoặc việc thánh hóa, hoặc thực hiện các hành vi quản trị, nếu lệnh cấm này xuất phát từ một vạ (điều 1335, khoản 2) hoặc từ một hình phạt thục hồi có tính chất cấm đoán (proibente: xem điều 1338 khoản 3, tham chiếu đến các cấm chỉ tại điều 1336, khoản 3). Điều này được áp dụng trong mọi trường hợp và không giới hạn, nếu liên quan đến nguy cơ tử vong của tín hữu yêu cầu hành vi đó; nhưng cũng áp dụng bất cứ khi nào tín hữu yêu cầu điều đó vì một lý do chính đáng nào đó, trong trường hợp các vạ tiền kết không được công bố.

Tóm tắt về các giới hạn trong việc áp dụng các hình phạt và các tự động trong việc sử dụng hình phạt

Việc làm rõ cho các Linh mục giải tội và những người giải thích luật hình sự Giáo Hội về các giới hạn, cả về mặt khách quan và chủ quan, trong việc áp dụng các hình phạt, đặc biệt là các hình phạt tiền kết, là rất quan trọng, không phải chỉ để làm phức tạp vấn đề. Điều này giúp tránh việc áp đặt các nghĩa vụ không cần thiết cho tín hữu khi họ xưng tội những tội cụ thể: thật sự, việc áp dụng một hình phạt theo quy định chính thức của luật sau khi một hành vi phạm tội xảy ra không phải là một quy trình tự động, mà nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan và cá vị.

Tại sao Giáo Hội đặt ra những giới hạn đối với việc thực sự áp đặt hình phạt lên người phạm tội? Thực tế, “khi có hành vi vi phạm công khai, thì trách nhiệm pháp lý được giả định…” (điều 1321, khoản 4); tuy nhiên, không thể xem nhẹ việc tự vấn về sự nhận thức thực sự và sâu xa của tín hữu ăn năn, vượt trên cả việc xác minh nhận thức đó – dù có thể lạnh lùng nhưng mang ý nghĩa pháp lý – được xác định bởi các điều khoản của Giáo luật. Đồng thời, cần xem xét việc họ có thể đã bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nội tại và/hoặc ngoại tại nào đó. Nói rộng hơn, cha giải tội, dưới góc độ của luật hình sự (hơn nữa, nguyên tắc “quilibet innocens censetur donec contrairium probetur - mọi người được coi là vô tội cho đến khi chứng minh ngược lại” cuối cùng cũng đã được làm sáng tỏ, điều 1321, khoản 1), nên đặt mình vào trạng thái nội tâm để tưởng tượng rằng mình đang đối diện với một tội nhân ăn năn, chứ không phải là một người thú nhận tội phạm, một con người chỉ cần đến sự tha thứ cho tội lỗi của mình.

Các hình phạt tiền kết, như đã đề cập, trong các tình huống đặc biệt (được học thuyết phân loại là những tình tiết miễn trừ (scriminanti), giảm khinh (scusanti) hoặc tha hình phạt (esimenti)[34]) được áp dụng ở mức độ giảm đáng kể so với mức được quy định một cách trừu tượng đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể, vốn bị xử phạt bằng các hình thức cấm chế. Nói cách khác, ấn tượng chung là cuối cùng các hình phạt này chủ yếu ảnh hưởng đến giáo sĩ hơn là giáo dân, mặc dù hiện nay hình phạt đình chỉ cũng có thể áp dụng cho nhóm tín hữu thứ hai này, do giới hạn trước đây của khoản 1, điều 1333 đã bị loại bỏ. Dù sao đi nữa, Cha giải tội vẫn có trách nhiệm thông báo cho hối nhân, bất kể người đó là ai, nếu người ấy trước đó chưa biết, rằng một số tội lỗi cũng đồng thời là các tội danh với hình phạt theo Giáo luật đi kèm.

Trước hết, nếu không có trách nhiệm nặng nề, do cố ý hoặc do tắc trách (điều 1321, khoản 2), thì không ai có thể bị trừng phạt, ngay cả khi có sự vi phạm bên ngoài luật[35].

Người nào thường xuyên không có khả năng sử dụng lý trí (và không thể bác bỏ dự đoán này chỉ bằng một trạng thái tỉnh táo tạm thời của chính kẻ phạm tội) được coi là không có khả năng phạm tội theo luật (điều 1322), và vì vậy về mặt pháp lý là không thể quy trách nhiệm.

Cũng có khá nhiều trường hợp – và đây chưa phải là danh sách đầy đủ – mà tín hữu không bị trừng phạt, dù về mặt kỹ thuật đã phạm tội và có trách nhiệm về tội đó. Ví dụ: không bị trừng phạt người chưa đủ 16 tuổingười không biết mình vi phạm một luật hoặc một lệnh truyền do lỗi không phải của họ (lưu ý: không phải không biết rằng luật đó có kèm hình phạt, vì trường hợp này thuộc điều 1324, khoản 1, mục 9; sự thiếu hiểu biết này được coi là tương đương với sự vô ý hoặc sai lầm); người hành động dưới sự ép buộc do bạo lực thể chất hoặc vì một sự việc bất ngờ không thể dự đoán hoặc không thể khắc phục; người hành động vì bị đe dọa nghiêm trọng, ngay cả khi chỉ mang tính chất tương đối, hoặc vì nhu cầu hoặc vì một sự bất tiện nghiêm trọng; cũng như người, không do lỗi của họ, đã sai lầm khi nghĩ rằng có tình huống đó, trừ khi hành động đó tự nó vốn đã xấu xa hoặc gây hại cho các linh hồn (do đó, sự miễn trách này không áp dụng, chẳng hạn, đối với tội phá thai[36] được thực hiện một cách chủ ý); người hành động để tự vệ chính đáng chống lại một kẻ tấn công bất công gây nguy hại cho chính họ hoặc người khác, với điều kiện là việc tự vệ đó được thực hiện ở mức độ vừa phải; người bị mất khả năng sử dụng lý trí, dù chỉ trong một thời điểm, ngoại trừ trường hợp do tình trạng say rượu (điều 1323, các mục 1-7).

Ngược lại, người phạm tội có thể bị trừng phạt, miễn là không liên quan đến các hình phạt tiền kết (latae sententiae) (vì trong trường hợp này, nguyên tắc chung là người phạm tội không bao giờ bị trừng phạt, xem điều 1324, khoản 3[37]... và ở đây, trường hợp tha hình phạt (esimente) được áp dụng, chẳng hạn, trong trường hợp tội phá thai được thực hiện có chủ ý, vì hình phạt trong trường hợp này là tiền kết). Tuy nhiên, hình phạt phải được giảm nhẹ (mitigata) hoặc thậm chí được thay thế (sostituita) bằng một hình thức sám hối, đối với người đã phạm tội trong các hoàn cảnh giảm khinh, được người xét xử vụ việc đánh giá tự do (điều 1324, khoản 2). Và dù danh sách này không đầy đủ, các trường hợp có thể kể đến bao gồm:

- Người chỉ có khả năng sử dụng lý trí một cách không hoàn hảo.

- Một người chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ 16 tuổi.

- Một người mất khả năng sử dụng lý trí do say rượu hoặc trạng thái rối loạn tâm trí tương tự, mà họ có trách nhiệm về trạng thái này nhưng không cố tình tạo ra để phạm tội hoặc nhằm chuẩn bị tình tiết giảm nhẹ (vì trong trường hợp này, hiện nay, điều đó trở thành tình tiết tăng nặng, xem điều 1326, khoản 1, mục 4).

- Một người hành động vì cơn xúc động mạnh mẽ, nhưng không đến mức ngăn cản hoàn toàn sự suy xét của lý trí và sự đồng thuận của ý chí, với điều kiện cảm xúc đó không bị cố ý kích thích hoặc khuyến khích.

- Một người bị ép buộc bởi sự sợ hãi nghiêm trọng, ngay cả khi chỉ mang tính chất tương đối, hoặc do nhu cầu hoặc do một bất tiện nghiêm trọng; cũng như người do lỗi của mình đã sai lầm khi nghĩ rằng có tình huống như vậy, trong trường hợp hành động đó tự bản chất vốn đã xấu xa hoặc gây hại cho các linh hồn.

- Một người không biết do lỗi của mình rằng luật hoặc lệnh truyền kèm theo hình phạt (và đây là một trường hợp khá phổ biến trong trường hợp phạm tội phá thai có chủ ý).

- Một người hành động mà không có trách nhiệm đầy đủ, miễn là trách nhiệm này vẫn còn ở mức nghiêm trọng.

Tất cả những điều này và những trường hợp khác được chi tiết hóa trong Điều 1324, khoản 1.

Sự bất hợp luật và ngăn trở: một bảo đảm cho Thân Thể Giáo Hội

Giáo Hội luôn coi trọng tính toàn vẹn về luân lý và thiêng liêng của các ứng viên vào các Chức Thánh, một phẩm chất thiết yếu đối với tất cả các thành viên trong Dân Chúa, nhưng đặc biệt quan trọng đối với các vị thừa tác viên, những người cống hiến cho việc phục vụ mục vụ nhân danh Thiên Chúa.

Vì vậy, bên cạnh các tiêu chí chung để nhận vào các Chức Thánh (Điều 1026-1032), chủ yếu nhằm kiểm tra sự tồn tại của các yêu cầu tích cực, Giáo Hội cũng đã ban hành các quy định nhằm loại trừ các yếu tố tiêu cực, thiết lập các tiêu chuẩn nghiêm ngặt đối với việc nhận vào các Chức Thánh và cấm việc tiếp cận hay thực thi các Bí tích đối với những tín hữu có cuộc sống, điều kiện cá nhân hoặc hành động trong quá khứ trái ngược rõ ràng với những giá trị Tin Mừng, ngay cả khi đó là các tình huống không được công khai.

Những hạn chế này, phản ánh sự thận trọng và nhằm đảm bảo không có các hành vi hay tình huống nào đi ngược lại phẩm giá và trách nhiệm của thiên chức Linh mục, cũng như có thể cản trở một thừa tác vụ hiệu quả, ngày nay được quy định rõ ràng bởi luật phổ quát[38] (như được nêu trong Bộ Giáo luật, xem điều 1040). Luật này liệt kê một cách chi tiết các trường hợp. Lĩnh vực này cũng thuộc thẩm quyền của Tòa Ân Giải Tối Cao, giới hạn trong các vấn đề thuộc tòa trong.

Sự bất hợp luật và ngăn trở, ít nhất trong tổ chức của Giáo Hội Latinh[39], được phân biệt bởi tính chất vĩnh viễn hay tạm thời (vì ngăn trở là tạm thời), cũng như cơ chế miễn chuẩn của chúng. Cần lưu ý rằng một khi đã được miễn chuẩn một cách tổng quát, sự bất hợp luật và ngăn trở trong việc nhận các Chức Thánh sẽ được coi là đã vượt qua một cách vĩnh viễn và không cần phải xin miễn chuẩn lại trong các cấp bậc tiếp theo[40].

Một số lưu ý chung, hữu ích cho Linh mục giải tội, nhưng không chỉ vậy: a) Cần phải có chứng cứ rõ ràng, xác thực và hợp pháp về sự bất hợp luật hoặc ngăn trở, vì trong trường hợp nghi ngờ, chúng không tồn tại; b) Sự thiếu hiểu biết về sự tồn tại của chúng không miễn chuẩn khỏi việc áp dụng sự ngăn cấm này (như điều 1045 quy định): trong phạm vi này, ngay cả khi có thiện chí cũng không được miễn chuẩn, áp dụng nguyên tắc tại điều 15; c) Áp dụng nguyên tắc giải thích của điều 18, yêu cầu một cách hiểu chặt chẽ[41], giới hạn vào ý nghĩa chính xác và trực tiếp của các từ ngữ được sử dụng.

Người biết về sự bất hợp luật hoặc ngăn trở trong việc nhận các Chức Thánh có nghĩa vụ - đây là một nghĩa vụ luân lý và pháp lý - phải tiết lộ chúng, tốt nhất là trước khi được thụ phong (điều 1043), cho Giám mục có thẩm quyền cấp thư giới thiệu (lettere dimissorie) (hoặc có thể là Giám mục nơi truyền chức), hoặc cho Cha xứ của người được thụ phong.

Cuộc cải cách gần đây của Quyển VI đã giới thiệu nguyên tắc quan trọng trong điều 1388, khoản 2 hiện nay: “Ai nhận các Bí tích Truyền Chức Thánh mà có liên quan đến một hình phạt hay sự bất hợp luật, nếu cố tình giữ im lặng, ngoài những gì được quy định tại điều 1044, khoản 2, mục 1 (các trường hợp ngăn trở trong việc thực thi các Chức Thánh), thì tự động bị đình chỉ Chức Thánh đã lãnh nhận”.

Quy định theo loại hình và miễn chuẩn

Điều 1041, đơn giản hóa quy định trước đây, liệt kê một cách rõ ràng những sự bất hợp luật trong việc nhận các Bí tích Truyền Chức Thánh, có thể được phân loại theo các nhóm sau:

1. Sự rối loạn tâm thần: Không có khả năng thực hiện thừa tác vụ một cách thích hợp do các rối loạn tâm thần nghiêm trọng (được gọi chung là “không bình thường”) hoặc các bệnh lý tâm thần khác, được đánh giá tiêu cực bởi các chuyên gia theo điều 220.

2. Tội phạm nghiêm trọng chống lại đức tin: Người phạm tội bội giáo (apostasia), lạc giáo (eresia) hay ly giáo (scisma), miễn là được cộng đồng tín hữu công nhận như vậy (điều 1330). Người không bị coi là có sự bất hợp luật (vì không có tội) là người đã lớn lên trong một cộng đồng giáo hội không phải Công giáo và sau đó gia nhập cộng đoàn Công Giáo trọn vẹn.

3. Mưu toan kết hôn: Người đã cố gắng kết hôn (vì vậy không áp dụng đối với một mối quan hệ ngoài luồng, dù có thể được công nhận hợp pháp) dù có liên kết trước đó với một mối quan hệ hôn nhân, chức linh mục hay lời khấn công khai về sự độc thân (điều 1088: trong một dòng tu theo nghĩa hẹp, xem luôn điều 18) của chính ứng viên; cũng như trường hợp cố gắng kết hôn với một người phụ nữ đã kết hôn hợp pháp hoặc đã có lời khấn tương tự.

4. Giết người và phá thai có chủ ý: Người đã phạm tội giết người cố ý, hoặc đã gây ra một vụ phá thai, và đã thực hiện hành động này với mục đích đạt được kết quả mong muốn, cũng như những người tham gia tích cực vào hành động này[42]. Các hành động như tự vệ hợp pháp, vô tình hay bất cẩn mà không có ý định giết (dẫu có hành động tội phạm) không bị coi là có sự bất hợp luật.

5. Hủy hoại cơ thể có chủ đích: Người đã gây ra những thương tích nghiêm trọng cho bản thân hoặc người khác một cách có chủ đích (loại trừ các thương tật nhỏ vì lý do văn hóa, tình cờ hay cần thiết cho điều trị y tế) hoặc đã cố gắng tự tử.

6. Thực thi năng quyền Chức Thánh không hợp pháp (và không thành sự): Người đã thực hiện các hành động chức thánh chỉ dành cho những người đã được thụ phong Giám mục hoặc Linh mục (do đó không áp dụng cho chức vụ Phó tế và các chức vụ không phải bí tích, như các hành động quản trị), do thiếu phẩm trật; cũng như trong trường hợp bị cấm thực hiện các hành động này do hình phạt đã được tuyên bố hoặc tuyên kết.

Điều 1042 xác định các ngăn trở (đơn thuần) trong việc nhận các Chức Thánh. Đặc điểm của chúng là tính tạm thời, vì vậy thường không cần phải có miễn chuẩn riêng biệt, vì chúng mất đi khi nguyên nhân của chúng không còn. Các ngăn trở này có thể được mô tả như sau:

1. Tình trạng hôn nhân: Các ứng viên cho chức Linh mục phải độc thân, ngoại trừ các trường hợp nam giới đã kết hôn (theo quy định Giáo Hội) và ứng cử viên cho chức Phó tế vĩnh viễn (điều 1031, khoản 2).

2. Thực thi các chức vụ hoặc công việc không phù hợp: Điều 285, khoản 3-4 và điều 286 cấm các Linh mục đảm nhận các công việc hoặc chức vụ thế tục có tham gia trực tiếp vào việc thực thi quyền lực dân sự hoặc có mâu thuẫn với tình trạng giáo sĩ của họ. Lệnh này không áp dụng cho các Phó tế vĩnh viễn, như đã nêu trong điều 288. Đối với những người đã thực hiện các công việc này trước khi được thụ phong, họ phải từ bỏ các công việc này, giải thích các hoạt động của mình và giải quyết các nghĩa vụ liên quan trước khi tiến hành thụ phong.

3. Tình trạng tân tòng: Các tân tòng, tức những người đã nhận phép rửa khi trưởng thành (vì vậy khi đã có khả năng lý trí, điều 852, 863; xem thêm điều 762, khoản 1, mục 8 CCEO), thường được coi là cần có một thời gian dài hơn để huấn luyện và trưởng thành trong đức tin trước khi được nhận vào chức Linh mục. Tuy nhiên, Giám mục địa phương có quyền đánh giá xem một tân tòng có “được thử thách đủ” và liệu họ có đủ điều kiện để được nhận thụ phong hay không.

Một tình huống ngăn trở (trong những trường hợp đã được nêu ở trên, trước hết) cũng có thể chỉ xuất hiện sau khi đã được thụ phong, vì vậy luật quy định các trường hợp không chỉ cấm việc nhận mà còn cả việc thực thi các Chức Thánh đã lãnh nhận. Ở đây cũng phân biệt sự bất hợp luật với những ngăn trở ít nghiêm trọng hơn[43].

Cụ thể (điều 1044, khoản 1) có bất hợp luật trong việc thực thi các Chức Thánh đã lãnh nhận đối với người: a) Dù bị cấm do sự bất hợp luật trong việc nhận Chức Thánh, nhưng dù không biết, người đó vẫn đã lãnh nhận (thành sự nhưng không hợp pháp); b) Người đã phạm tội theo điều 1041, khoản 2 (tội bội giáo, lạc giáo hay ly giáo), nếu tội này là công khai[44]; c) Người đã phạm phải các hành động theo điều 1041, các mục 3, 4, 5, 6 (mưu toan kết hôn, giết người cố ý và phá thai, hủy hoại cơ thể và có ý định tự tử, cũng như thực hiện các hành động thể hiện quyền thánh chức của chức Linh mục).

Các ngăn trở và miễn chuẩn đơn thuần trong việc thực thi các Chức Thánh đã lãnh nhận

Điều 1044, khoản 2 quy định các trở ngăn trở giản đối với việc thực thi các Chức Thánh đã lãnh nhận, đối với những người: a) Mặc dù bị ngăn trở trong việc nhận các Chức Thánh, vẫn nhận các Bí tích một cách bất hợp pháp; b) Bị ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần hoặc các bệnh lý tâm thần khác theo điều 1041, mục 1, cho đến khi Giám mục, sau khi tham khảo ý kiến chuyên gia, cho phép thực hiện các Chức Thánh đó.

Sự bất hợp luật và các ngăn trở gia tăng tùy theo nguyên nhân khác nhau của chúng, nhưng không phải do sự lặp lại của cùng một nguyên nhân, trừ khi là sự bất hợp luật do giết người cố ý hoặc phá thai có kết quả: trong trường hợp này, để hợp lệ, yêu cầu miễn chuẩn sự bất hợp luật phải chỉ rõ số lượng tội ác đã thực hiện (điều 1046; 1049, khoản 2).

Về việc loại bỏ những yếu tố ngăn trở việc lãnh nhận hoặc thực thi các Chức Thánh, các ngăn trở (đơn thuần), như đã nói, là tạm thời theo bản chất và vì vậy thường chỉ cần xác nhận sự chấm dứt của nguyên nhân gây ra chúng để chúng hết hiệu lực. Ngược lại, sự bất hợp luật thường chỉ chấm dứt khi có miễn chuẩn. Đặc biệt, sự bất hợp luật phát sinh do những hành động phạm tội nhất định (ex delictu), như lạc giáo/bội đạo/ly giáo hoặc phá thai có chủ đích, sẽ không tự động chấm dứt với việc tha tội (hình phạt tiền kết) liên quan đến tội phạm. Điều này vì sự bất hợp luật đại diện cho một ngăn trở cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân liên quan đến khả năng của họ trong việc lãnh nhận các Chức Thánh hoặc thực thi chúng sau khi đã thụ phong. Do đó, để loại bỏ chúng, cần có một miễn chuẩn cụ thể.

Về người có thẩm quyền ban miễn chuẩn, quyền này được dành riêng cho Tòa Thánh đối với tất cả các sự bất hợp luật (để lãnh nhận các Chức Thánh và để thực thi chúng), khi các sự bất hợp luật này có căn cứ trong một sự kiện đã được trình báo trong tòa án (cả tòa án Giáo Hội và dân sự, điều 1047, khoản 1). Ngoài trường hợp này, Tòa Thánh cũng có thẩm quyền ban miễn chuẩn cho sự bất hợp luật trong việc lãnh nhận các Chức Thánh khi liên quan đến các tội bội đạo, lạc giáo và ly giáo, hoặc mưu toan kết hôn, kể cả hôn nhân dân sự, nếu sự kiện là công khai (điều 1047, khoản 2, mục 1); và cũng đối với tội phá thai, cả khi công khai hay kín đáo (điều 1047, khoản 2, mục 2). Tòa Thánh cũng có thẩm quyền ban miễn chuẩn cho sự bất hợp luật trong việc thực thi các Chức Thánh đã lãnh nhận bất hợp pháp do tội mưu toan kết hôn (dù là hôn nhân dân sự), khi sự việc công khai, và tội phá thai, cả khi kín đáo (điều 1047, khoản 3). Cuối cùng, một trường hợp duy nhất của ngăn trở (đơn thuần) trong việc lãnh nhận các Chức Thánh đã được dành riêng cho Tòa Thánh, đó là điều 1042, mục 1, tức là đối với người đàn ông đã kết hôn hợp pháp và hợp lệ (xem điều 1047, khoản 1, mục 3).

Tất cả các trường hợp còn lại của sự bất hợp luật và ngăn trở (trong việc lãnh nhận và thực thi các Chức Thánh đã lãnh nhận) có thể được miễn chuẩn bởi Giám mục địa phương (điều 1047, khoản 4).

Cần lưu ý một số tiêu chí hình thức cần thiết khi trình bày yêu cầu miễn chuẩn sự bất hợp luật hoặc ngăn trở, khi có thẩm quyền của Tòa Thánh. Trong yêu cầu, gửi đến Bộ có thẩm quyền Tông Toà (Tòa Ân Giải Tối Cao cũng có thẩm quyền đối với các trường hợp trong tòa trong), điều quan trọng là liệt kê chi tiết và cụ thể tất cả các yếu tố có liên quan, đặc biệt là trong các trường hợp giết người và phá thai, đối với những trường hợp này cần chỉ rõ từng lần xảy ra (xem điều 1049, khoản 2). Tuy nhiên, nếu có những thiếu sót không cố ý và do thiện chí, miễn chuẩn đã được cấp sẽ áp dụng cho cả những yếu tố không được đề cập, ngoại trừ trong các trường hợp giết người cố ý và phá thai có chủ đích (xem điều 1049, khoản 1), cũng như các tình huống đang trong quá trình tố tụng. Ngược lại, lợi ích này không áp dụng đối với sự bất hợp luật và ngăn trở bị bỏ qua có chủ đích.

Người đã được truyền chức nhưng sau đó bị ràng buộc bởi bất hợp luật vẫn có thể thi hành các Chức Thánh khi việc xin phép từ Giám mục hoặc Bộ thẩm quyền liên quan là điều khách quan rất khó khăn và nặng nề đối với họ (tuy nhiên, chỉ tình trạng ‘khẩn cấp’ (casus urgentior) chung chung được quy định cho các hình phạt theo điều 1357, là không đủ). Ngoài việc phải có sự bất tiện nghiêm trọng để xin phép, trường hợp dẫn đến bất hợp luật phải là bí mật, và các điều kiện khách quan phải gây ra nguy cơ thiệt hại nghiêm trọng hoặc làm mất danh dự đối với giáo sĩ (điều 1048).

Tuy nhiên, người sử dụng quyền này phải sớm xin phép từ Giám mục hoặc Tòa Ân Giải Tối Cao thông qua Cha giải tội. Hiện nay, khác với trước đây, Cha giải tội không có quyền miễn chuẩn, mà trong trường hợp này chỉ đóng vai trò trung gian đơn thuần - giữ bí mật danh tính và không tiết lộ tên của hối nhân - giữa người xin miễn chuẩn và Bộ thẩm quyền liên quan.


Roma, ngày 4 tháng 3 năm 2024

Chuyển ngữ: An Bình, C.Ss.R.

Chuyển dịch từ: http://www.penitenzieria.va/content/dam/penitenzieriaapostolica/eventi/xxxiv-cfi/Tonello.pdf

Mọi đóng góp ý kiến liên quan đến bản dịch xin vui lòng gửi cho người dịch qua địa chỉ email: [email protected]


Nguồn: hdgmvietnam.com