BÀN VỀ VẤN ĐỀ TÁI TRUYỀN GIÁO

TRONG GIÁO PHẬN HẢI PHÒNG

Tháng 12/2024


MỤC ĐÍCH

Trong Thư Mục vụ 2025 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa, các Đức Giám mục đã đưa ra định hướng mục vụ cho Hội Thánh tại Việt Nam trong năm 2025 là năm “cùng nhau loan báo Tin Mừng”. Các ngài nhấn mạnh việc loan báo Tin Mừng là lệnh truyền của Đấng Cứu thế: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. (Mt 28,19) Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Hội Thánh lữ hành là truyền giáo” (Ad gentes số 2). Như thế, Giáo Hội, tự bản chất là Giáo Hội truyền giáo. Vì thế, từ khi thành lập cho đến ngày tận thế, Giáo Hội phải kiên định với bản chất của mình.

Đức Giám mục (ĐGM), ngay từ khi về nhận giáo phận Hải Phòng (GPHP) vào tháng 03/2022, trong các dịp gặp gỡ, chia sẻ với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, đã nói lên thao thức của ngài về sứ mạng quan trọng này. Tuy nhiên, trong bối cảnh thực tế của GPHP hiện nay, ĐGM nhấn mạnh đến khía cạnh tái truyền giáo. 

Với thao thức về việc tái truyền giáo tại GPHP, trong bài nói chuyện với các bạn trẻ dịp tĩnh tâm mùa Chay 2023 tại nhà thờ Chính toà, ĐGM đã chia sẻ bằng những lời hết sức tâm huyết như sau: “Làm thế nào để tái truyền giáo trong giáo phận của mình? Nếu ở trong GPHP, chúng ta cố gắng tái truyền giáo trong vòng 10 năm, thì những người khô khan nguội lạnh trở lại sinh hoạt với Giáo Hội, rồi con cái họ cũng được rửa tội, sinh hoạt với Giáo hội, thì GPHP sẽ là một Giáo phận rất mạnh mẽ.”

Trong buổi chia sẻ mục vụ tuần tĩnh tâm năm của các linh mục Giáo phận, ngày 04/10/2024, ĐGM đã nhấn mạnh đến việc tái truyền giáo như là định hướng cho Năm Mục vụ của Giáo phận năm 2025. Và trong lời khai mạc và bài giảng lễ Khánh nhật Truyền giáo được tổ chức tại nhà thờ Chính toà, ngày 19/10/2024, một lần nữa ĐGM nói lên thao thức tái truyền giáo tại GPHP.

Để hướng đi mục vụ tái truyền giáo sát với thực tế đời sống của GPHP hơn, ĐGM đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể bằng cách nhìn lại nếp sống đạo và ảnh hưởng của các hệ giá trị làm nên phong cách (character) người tín hữu GPHP. Và từ những yếu tố đó, các mục tử sẽ có những chương trình mục vụ thiết thực, phù hợp, hầu đem lại một bầu khí và tinh thần sống đạo mới cho Giáo phận trong thời gian tới.


PHƯƠNG PHÁP

Để thực hiện và triển khai ý tưởng của ĐGM, người viết sử dụng phương pháp Thần học Mục vụ (practical theology) của tác giả James D. Whiteheads.[1]Phương pháp gồm ba bước chính:

Bước khởi đầu: Hòa mình (attending) vào trong bối cảnh. Trong giai đoạn này, người viết sẽ từng bước khám phá ra những yếu tố làm nên tính cách của người tín hữu GPHP. Bước này gồm ba phần:

Phần 1, trình bày những nét chính yếu về lịch sử và đời sống đức tin của giáo dân GPHP với những ảnh hưởng của các hệ giá trị.

Phần 2, xem xét thấu đáo một số yếu tố cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống đức tin của người tín hữu.

Phần 3, tìm hiểu xem truyền thống Kitô giáo dạy gì về Tân Phúc Âm hoá hay còn gọi là tái truyền giáo.

Bước kế tiếp: Thẩm định (assertion) thực tại. Tất cả những dữ liệu và thông tin trên sẽ được phân tích và đánh giá để nhận ra các mối tương liên (correlation) giữa các hệ giá trị, có thể để lại những hệ luỵ tiêu cực và những đóng góp tích cực nơi người tín hữu GPHP.

Bước cuối cùng: Những giải pháp mục vụ (pastoral responses). Dựa trên sự thấu hiểu qua việc làm sáng tỏ lẫn nhau của những phần trong bước thứ nhất và thứ hai, đưa ra những giải pháp mục vụ phù hợp cho những “vấn đề” của Giáo phận hiện nay.

NGUỒN TƯ LIỆU, THÔNG TIN

Các nguồn “chất liệu” được đúc rút từ:

- Những thống kê nhân khẩu và bí tích qua các thời kỳ

- Tìm hiểu và tổng hợp những chia sẻ của một số cha xứ ở các địa bàn khác nhau

- Sự đóng góp của các chủng sinh qua các kỳ thực tập mục vụ tại một số giáo xứ

- Nhận định của một số quý vị tham gia ban hành giáo qua các thời kỳ, ở các địa bàn khác nhau

- Một số tín hữu giáo dân có khả năng

- Qua kết quả của cuộc khảo sát đánh giá “Thực trạng gia đình và đời sống đạo của các gia đình trong giáo phận” của Ban Mục vụ Gia đình GPHP năm 2024

Những thông tin này không phải là kết quả của một dự án “khảo sát”, “nghiên cứu” quy mô và theo phương pháp khoa học, nên những đánh giá, định lượng có tính chủ quan. Vì thế, những thông tin và đánh giá của bài viết này chỉ có thể được coi là một góc nhìn hẹp và chủ quan của người viết về thực trạng đời sống đạo của các tín hữu tại GPHP mà thôi.

 

 

DÀN BÀI

I – Những cột mốc lịch sử quan trọng của GPHP

1. Giáo phận Hải Phòng qua những dấu mốc lịch sử

2. Đời sống đạo của người Công giáo GPHP và những ảnh hưởng của các hệ giá trị

II – Khảo sát về đời sống đạo của người Công giáo GPHP

1. Khái quát về địa lý và đặc điểm nhân khẩu

2. Việc thực hành đức tin, tín lý và luân lý Kito giáo truyền thống

a)  Về việc tham dự Thánh lễ

b)  Về việc lãnh nhận Bí tích

c)   Về việc đọc kinh - cầu nguyện

d)  Việc việc tham gia hội đoàn

3. Về đời sống hôn nhân – gia đình

a)  Việc dựng vợ gả chồng

b)  Về vấn đề giáo dục con cái và các giá trị truyền thống

4. Sự chuyển biến trong suy nghĩ của người giáo dân GPHP

a)  Quan điểm về ly hôn

b)  Quan điểm về việc quan hệ tình dục trước hôn nhân

c)   Quan niệm về số con cái trong gia đình và lựa chọn giới tính

III – Tái truyền giáo dưới cái nhìn của Huấn Quyền

IV – Mối tương quan giữa các hệ giá trị

1. Đức tin và văn hoá truyền thống

2. Đức tin và những vấn đề mang tính thời đại

3. Đức tin và sự lựa chọn những giá trị

V – Những đề nghị cho sứ vụ tái truyền giáo tại GPHP

1. Củng cố sự hiệp thông

a) Canh tân hàng giáo sĩ và cổ võ ơn gọi

b) Thúc đẩy việc dạy và học giáo lý, Lời Chúa

c) Chú trọng việc cử hành phụng vụ

d) Khuyến khích việc cầu nguyện trong gia đình

2. Gia tăng đức ái trong các cộng đoàn đức tin

a) Củng cố các giáo xứ

b) Củng cố các Ban hành giáo, đoàn thể, giới

c) Củng cố đời sống hôn nhân – gia đình

d) Khuyến khích các hoạt động tông đồ và bác ái

3. Thi hành sứ vụ tái truyền giáo bằng cách gặp gỡ để “lắng nghe” và “loan báo” Tin Mừng.

 

I – Những cột mốc lịch sử quan trọng của GPHP

GPHP (giáo phận Đông Đàng Ngoài) được thiết lập năm 1679. Đến năm 2029, Giáo phận sẽ đạt tới cột mốc 350 năm tuổi, một dấu mốc quan trọng và ý nghĩa trong lịch sử Giáo phận.

Khởi đầu của tiến trình tìm hiểu, bài viết đưa ra những cột mốc lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển của GPHP từ khi thành lập cho đến nay, đồng thời những khái quát về đời sống đức tin và những ảnh hưởng qua lại của các hệ giá trị trên đời sống tinh thần đối với người Công giáo GPHP.

1. Giáo phận Hải Phòng qua những dấu mốc lịch sử[2]

Trang thông tin của HĐGM VN có ghi nhận những dấu mốc lịch sử quan trọng của GPHP như sau:

Ngày 09/09/1659, với Sắc chỉ Super Cathedram Principis, Đức Alexander VII (1655-1667) thiết lập ở Việt Nam hai Giáo phận: Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Năm 1679, Đức Innocens XI (1676-1689) chia Giáo phận Đàng Ngoài làm hai: Đông Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài, lấy sông Hồng và sông Lô làm ranh giới. Toà Giám mục thường ở Phố Hiến (tên một cảng nằm trên tả ngạn sông Hồng, do Nhà Lê mở vào cuối thế kỷ XVII, phía Nam thị xã Hưng Yên ngày nay); đôi khi Toà Giám mục được đặt ở vùng Bùi Chu, Kẻ Sặt hay Hải Dương.

Ngày 05/09/1848, Đức Piô IX (1848-1878) ban Chiếu thư tách tỉnh Nam Định và tỉnh Hưng Yên, lập thành Giáo phận Trung; phần đất còn lại giữ tên cũ là Giáo phận Đông. Thời điểm này số dân Công giáo đã lên tới con số 45.000, ở rải rác trong 327 xứ trên tổng số dân chung là 3 triệu người. Toà Giám mục khi ở Nam Am, khi ở Kẻ Mốt (thuộc Bắc Ninh ngày nay).

Ngày 29/05/1883, Đức Lêô XIII (1878-1889) công bố Chiếu thư lập Giáo phận Bắc. Phần còn lại gồm các tỉnh Hải Dương (bấy giờ gồm cả Kiến An), Quảng Yên và Hải Ninh (tức Móng Cái), vẫn giữ tên cũ là Giáo phận Đông. Toà Giám mục đặt ở Hải Dương. Hải Phòng khi ấy là sở cha chính. Năm 1880, nhà thờ Chính tòa bắt đầu được xây dựng.

Năm 1890, Đức cha Terrès Hiến dời Toà Giám mục từ Hải Dương ra Hải Phòng, còn sở cha chính chuyển sang Liễu Dinh một thời gian, rồi đưa về Kẻ Sặt.

Ngày 03/12/1924, Toà Thánh đổi tên Giáo phận Đông theo địa hạt hành chính, nơi đặt Toà Giám mục, thành GPHP.


2. Đời sống đức tin của người Công giáo GPHP và những ảnh hưởng của các hệ giá trị

Hầu hết các thế hệ tín hữu trong toàn Giáo phận, từ khi được thiết lập cho đến nay, được lãnh nhận Bí tích Rửa tội từ khi còn nhỏ trong các gia đình Công giáo. Họ gắn bó cả cuộc đời với một địa phương, một xứ đạo, một nền văn hoá - tập quán thuần tuý theo truyền thống thực hành việc đạo đức của các nhà truyền giáo Dòng Đaminh Tây Ban Nha với các hình thức lễ hội bình dân rất phong phú, đa dạng. Vì thế, sự nhận thức, hành xử và nếp sống, nếp nghĩ của người giáo dân trong các giáo xứ thuộc GPHP tương đối đồng nhất và không có nhiều khác biệt.

Ngay từ khi GPHP được thiết lập (1679), cuộc sống và con người các tín hữu được hình thành dưới những ảnh hưởng song hành giữa hệ giá trị Công giáo theo truyền thống Đaminh Tây Ban Nha và văn hoá Nho giáo rất thâm thuý. Hai khối “văn hoá” này có một sự tương đồng khá lớn. Bên cạnh đó, các Thừa sai Dòng Đaminh có những đóng góp giá trị trong việc hội nhập các thực hành đức tin mang cung cách Tây Ban Nha vào văn hoá địa phương (inculturation). Những yếu tố đó tương tác với nhau, tạo ra một nền tảng, giá trị, một lối hành xử cố hữu, rất phổ biến trong đời sống của các tín hữu Công giáo GPHP xưa cũng như nay.

Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc Cải cách Ruộng đất (1953-1956), đã để lại một hậu quả nặng nề trong cuộc sống xã hội và tôn giáo ở miền Bắc. Miền đất GPHP chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi tư tưởng và học thuyết Xã hội Chủ nghĩa. Thêm vào đó, cuộc di cư năm 1954 đã gây ra một sự tổn thất lớn lao về nhân sự cũng như vật chất cho GPHP. Chính trong bối cảnh ấy, hệ giá trị Xã hội Chủ nghĩa không những ảnh hưởng lớn đến lối suy nghĩ, hành vi ứng xử mà còn làm cho con người đánh mất tâm thức tôn giáo. Và người Công giáo không là một ngoại lệ. Phải đợi hơn nửa thế kỷ sau, GPHP mới dần lấy lại được sức sống vốn có và con số các tín hữu Công giáo tại GPHP mới đạt đến con số đã có trước cuộc di cư. Tuy nhiên, do biên độ cách biệt quá lớn giữa dân số chung và dân số Công giáo tại địa bàn thuộc GPHP, nên mặc dù số tín hữu Công giáo có gia tăng, thì tỷ lệ người Công giáo so với dân số chung trên địa bàn GPHP vẫn luôn chỉ dừng ở mức độ khoảng 3%.

Từ sau năm 2000, một khó khăn khác nữa về đời sống đạo xuất hiện. Các địa phương thuộc địa hạt GPHP thiết lập các thành phố và các trung tâm kinh tế, du lịch mới, phát triển rất nhanh. Trong bối cảnh đô thị hoá và công nghiệp hoá nhanh chóng như thế, các trung tâm mới này thu hút một nguồn nhân lực người trẻ rất lớn từ các giáo xứ miền quê ra làm việc. Nhiều người trẻ rời gia đình, giáo xứ đến các đô thị và khu công nghiệp tìm việc làm và cơ hội phát triển kinh tế. Tại đây, họ tiếp xúc với nhiều quan điểm, trào lưu và giá trị khác nhau. Ngược lại, các giáo xứ sở tại cũng tiếp nhận số lượng đáng kể những người không cùng niềm tin và tư tưởng từ các địa phương. Điều này đã nảy sinh những thay đổi trong quan niệm, ý thức, hành vi cá nhân và nếp sống đạo của các tín hữu. Trong đó, có một thay đổi đáng lo ngại. Trong suy nghĩ của những người trẻ di dân là mình được giải phóng khỏi những ràng buộc của truyền thống đạo đức trong các gia đình và xứ đạo. Con người cá nhân chủ nghĩa thay thế đạo đức tuân phục bằng đạo đức trách nhiệm. Cá nhân tự quyết định và chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình thay vì tuân giữ theo những hướng dẫn và nguyên tắc đã được các thế hệ cha ông tốt lành, đạo đức thiết lập.

Ở một khía cạnh khác, đời sống đạo của người Công giáo GPHP chưa hẳn đã chuyển đổi sang lối tư duy trưởng thành, nay lại bị ảnh hưởng bởi một lối sống mở, thoáng, hiện đại. Chính vì thế, nơi họ tồn tại một sự mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa các thế hệ trong giáo xứ và gia đình xoay quanh các giá trị truyền thống đã định hình, bao gồm hệ giá trị Công giáo và giá trị văn hoá người Việt, cùng với những hệ giá trị, tư tưởng mới. Và cũng vì thế, các tín hữu phải đối diện với những lựa chọn sống đạo đang diễn ra nơi chính nội tâm, trong gia đình và cộng đồng của mình.


II – Khảo sát về đời sống đạo của người Công giáo GPHP

Sau khi đã có một cái nhìn tổng thể, bài viết đi vào mô tả chi tiết một số khía cạnh trong đời sống đạo của người Công giáo GPHP hôm nay. Để có một sự đánh giá khách quan về thực tại, bài viết không thể không quan tâm đến yếu tố địa lý và đặc điểm nhân khẩu của người Công giáo GPHP.

1. Khái quát về địa lý và đặc điểm nhân khẩu

GPHP hôm nay có diện tích 9.079.10 km2  gồm thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, tỉnh Quảng Ninh hai huyện tỉnh Hưng Yên. Dân số 5.621.000 người[3], với khoảng134.000 tín hữu.

Địa bàn mục vụ Giáo phận được chia thành 6 giáo hạt, với 109 giáo xứ. Trong đó có 62 giáo xứ được thành lập trước biến cố di cư 1954. Từ sau năm 2005 cho đến nay, có 47 giáo họ được tách từ các giáo xứ cũ, để nâng lên thành giáo xứ mới. Thực tế tại các giáo xứ cho thấy việc chia, tách, và nâng các giáo họ lên hàng giáo xứ là do sự chuyển dịch số giáo dân trong các giáo xứ và trong Giáo phận. Tại một số giáo xứ nội đô và ven đô các thành phố, giáo dân từ các Giáo phận khác đến “định cư” hay “phiêu cư” tham gia sinh hoạt do nhu cầu làm ăn, một số nhỏ do nhu cầu học tập, chỉ có tính “thời vụ” chứ không mấy gắn bó với giáo xứ. Số các tín hữu gắn bó với các giáo xứ này chiếm một tỷ lệ không lớn.

Khoảng ba phần tư các giáo xứ của GPHP nằm ở vùng nông thôn. Ý niệm về một giáo xứ “toàn tòng”, trong đó các ông bà, cha mẹ trong gia đình có thói quen thức khuya dậy sớm và luyện tập cho con cháu đi nhà thờ đọc kinh và tham dự thánh lễ mỗi ngày, nay còn lại không nhiều. Trong bối cảnh xã hội công nghiệp hoá, giới trẻ đi học, đi làm theo giờ hành chính hay theo ca, nên họ không có thời gian và đánh mất thói quen tham gia các sinh hoạt đạo đức thường ngày như các thế hệ trước.

Trong các thánh lễ Chúa Nhật, tại các giáo xứ ở các thành phố hay các khu công nghiệp, cộng đoàn không chỉ giới hạn trong số giáo dân “định cư”, mà còn có giáo dân “nhập cư”. Thành viên của những đoàn thể trong các giáo xứ cũng mở ra với giáo dân “tạm cư”. Nhưng khi di chuyển đến nơi làm ăn hay ở trọ khác, họ cũng tìm đến giáo xứ mới để sinh hoạt. Do đó, trong thực tế có khá nhiều trường hợp giáo dân “vô danh”. Họ đi lễ ngày Chúa Nhật khá đông nhưng lại “đứng bên ngoài” những sinh hoạt của giáo xứ. Mặt khác, giới trẻ từ các giáo xứ vùng nông thôn rời quê hương để đi học, đi làm ở thành phố thực hành việc “giữ đạo” trong môi trường cộng đoàn giáo xứ họ tạm trú, thay vì gắn kết với giáo xứ nơi quê nhà. Vì thế, phần lớn các hội đoàn trong các giáo xứ vùng nông thôn thiếu vắng giới trẻ.

Dù có những thay đổi về nhân khẩu nhưng đó chỉ là sự chuyển dịch nội bộ giữa các giáo xứ hay các miền khác nhau trong GPHP nhiều hơn là giáo dân từ các Giáo phận khác đến. Như thế, một điều dễ nhận thấy nơi đời sống của người Công giáo GPHP ở một thể “tĩnh” như là một định chế văn hoá, xã hội bị chi phối bởi nền tảng giá trị đạo đức cổ truyền mà tính đặc thù lịch sử truyền giáo còn lưu truyền lại đến ngày nay. Vì thế, ở đây, những tập tục “giữ đạo” và “sống đạo” cũng như những hành vi ứng xử của con người bị chi phối bởi nền tảng giá trị đạo đức kép này rất sâu đậm.

Tiếp theo, để tiếp cận gần hơn với đời sống đạo của các tín hữu, người viết đề cập đến những thực hành đức tin truyền thống, đời sống hôn nhân gia đình và đặc biệt những chuyển biến trong tư duy sống đạo của phần lớn giáo dân tại GPHP.


2. Việc thực hành đức tin, tín lý, luân lý và truyền thống

Các hình thức đạo đức truyền thống được hình thành từ những buổi đầu sơ khai tại miền đất này, cho đến nay vẫn được duy trì và thậm chí phát triển hơn nữa. Những hình thức này đã được các thế hệ cha ông truyền lại là một trong những cách thức thể hiện đức tin Công giáo. Điều này tạo thành nếp sống đặc trưng của người Công giáo thuộc các Giáo phận được chia tách từ Giáo phận Đông Đàng Ngoài. Theo đó, các sinh hoạt phụng vụ và lễ nghi chủ yếu diễn ra ở không gian công cộng, nơi nhà thờ. Bên cạnh đó, các việc đạo đức riêng tư được thực hành ở gia đình. Vào buổi sáng - tối, các gia đình đạo đức truyền thống xưa quy tụ nhau, đọc kinh gia đình trước bàn thờ Chúa.


a) Về việc tham dự thánh lễ


Tổng hợp các ý kiến đến từ một số quý cha, có nhiều giáo xứ ở vùng nông thôn có truyền thống đạo đức, tỷ lệ giáo dân đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật khá cao, lên tới 70%. Nhưng nếu tính chung cả Giáo phận, tỷ lệ đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật, chưa tới 50%. Và tỷ lệ giáo dân đi tham dự thánh lễ ngày thường, chỉ khoảng 15%.

Ngay cả ở các giáo xứ, giáo họ nhỏ, những thập niên trước, khi chưa có các cha xứ, giáo dân họp nhau đọc kinh sáng - tối tại nhà thờ, với tỷ lệ rất cao. Ngày nay, hầu hết tại nhà thờ hàng tuần đều có các cha đến dâng lễ, thì việc đến nhà thờ đọc kinh sáng – tối hàng ngày như thể là việc dành cho một nhóm nhỏ cố định là một số rất ít các cụ già. Rất ít người trẻ đi tham dự thánh lễ ngày thường. Phần đông giáo dân giữ đạo chỉ ở mức “chu toàn bổn phận”, đi lễ ngày Chúa Nhật và những ngày lễ trọng theo luật.

Những tín hữu tham dự thánh lễ ngày thường là những người có bề dày kinh nghiệm sống đạo, có nhiều năm gắn bó với việc đi lễ hằng ngày. Họ coi việc tham dự thánh lễ mỗi ngày như là “lương thực thiêng liêng”. Họ ở độ tuổi mà lẽ thường không còn phải lo toan về việc mưu sinh cho gia đình và có kinh nghiệm gắn bó với cộng đồng. Việc họ đi lễ mỗi ngày không chỉ là nhu cầu thiêng liêng, mà còn là nhu cầu giao tiếp. Họ không chỉ “giữ đạo” theo luật dạy, nhưng còn “giữ đạo” theo “truyền thống đạo đức” mà họ vẫn tuân giữ. Nhu cầu “nuôi dưỡng thiêng liêng” cũng giống như nhu cầu lương thực vật chất – “ăn cơm hằng ngày” và cũng “đi lễ mỗi ngày”. Ngược lại, trong số những người trẻ đi tham dự thánh lễ, dường như không “đồng điệu” với “truyền thống đạo đức” của thế hệ lớn tuổi. Họ chưa “vượt luật” bỏ đi lễ ngày Chúa nhật và lễ trọng, nhưng chỉ “giữ ngày Chúa Nhật” theo luật dạy.

Ở một khía cạnh khác, trong quan niệm Nho giáo, đề cao uy tín người lãnh đạo. Vì thế gương sống, tư cách, cách làm việc và đời sống thiêng liêng của vị linh mục cũng ảnh hưởng rất lớn đến nếp sống đạo của các tín hữu giáo dân, ngay cả việc thu hút giáo dân tham dự thánh lễ.

Cũng liên quan đến việc tham dự thánh lễ, phần đông giáo dân quan tâm đến bài giảng. Nhóm giáo dân trẻ có tỷ lệ quan tâm đến bài giảng cao hơn so với lớn tuổi. Càng trẻ tuổi thì mức độ quan tâm đến bài giảng càng cao dần. Họ muốn nghe để hiểu rõ hơn về Lời Chúa qua sự cắt nghĩa của cha xứ. Bài giảng có vai trò giải thích Lời Chúa và ứng dụng vào cuộc sống. Có thể nói, bài giảng có vai trò định hướng cho đời sống đạo của các tín hữu. Điều này phản ánh lối tư duy truyền thống của người giáo dân GPHP vẫn hiểu rằng quyền diễn giải Kinh Thánh thuộc về các linh mục, hơn là trực tiếp tìm kiếm ý Chúa thông qua việc tự suy niệm, mà họ vốn không có điều kiện học hỏi và không có khả năng suy tư. Khi người giáo dân quan tâm đến bài giảng lễ, thì điều ấy cũng cho thấy họ có quan điểm và nhận định về bài giảng khi dự lễ. Điều đó cũng cho thấy họ đã biết nối kết việc “giữ đạo” với suy nghĩ cá nhân. Bài giảng có thể giúp họ hiểu và nội tâm hoá các giá trị của Tin Mừng. Các tín hữu mong đợi các cha dọn cho họ bàn tiệc Lời Chúa chứ không phải đáp ứng thị hiếu hay việc giải trí. Những người trẻ và giáo dân ở thành thị quan tâm đến bài giảng trong thánh lễ hơn nhóm giáo dân lớn tuổi và ở vùng nông thôn. Họ quan tâm nhiều đến bài giảng lễ hơn các cử hành khác. Họ cũng mong các cha, qua bài giảng, giúp họ thăng tiến đời sống đức tin và luân lý. 

Việc tham dự thánh lễ theo thói quen ở các giáo xứ truyền thống vùng nông thôn cũng một phần là do bị áp lực từ phía cộng đồng và họ “buộc lòng” tham dự, để bản thân không trở nên xa lạ với cộng đồng. Đây cũng có thể được xem là một dạng giữ đạo theo thói quen, đọc kinh, đi lễ cách máy móc mà không hiểu và cảm nghiệm được ý nghĩa của nghi lễ phụng vụ. Bên cạnh đó, cũng có những người cố gắng đi tham dự thánh lễ để tránh bị mọi người xung quanh dị nghị, cho dù trong thâm tâm không muốn. Phải chăng đây là một dạng thức “khô đạo” hay “nhạt đạo”!

Khi không thể tham dự lễ Chúa Nhật, giáo dân GPHP có thói quen đọc kinh, lần chuỗi để “bù”, hơn là suy niệm Lời Chúa hay làm việc bác ái. Đối với những giáo dân chỉ đi lễ trong dịp lễ trọng hay những giáo dân “đã lâu không đi lễ” thì càng không có thói quen đọc kinh, lần chuỗi “bù” khi họ không đi lễ Chúa Nhật.


b) Về việc lãnh nhận Bí tích


Phần lớn người giáo dân GPHP ý thức việc đón nhận bí tích Giải tội một năm ít là một lần để được rước lễ trong mùa Phục Sinh. Cũng không ít trường hợp lâu năm không xưng tội.

Có một mối tương quan giữa mức độ đi lễ và mức độ xưng tội. Cụ thể những người thường xuyên đi lễ cũng là những người thường xuyên xưng tội. Những người “đã lâu không đi lễ” thì cũng chiếm tỉ lệ cao “đã lâu không xưng tội”. Tương tự, những người lớn tuổi xưng tội đều đặn hơn những người trẻ. Ngược lại số những người “đã lâu không xưng tội” ở người trẻ có tỉ lệ cao hơn những người lớn tuổi.

Người lớn tuổi xưng tội đều đặn hơn người trẻ. Người đi lễ thường ngày xưng tội có tỷ lệ xưng tội cao hơn nhóm giáo dân chỉ đi lễ Chúa Nhật. Các tín hữu ở miền quê cũng có tỷ lệ xưng tội cao hơn nhóm người ở thành thị. Phải chăng người lớn tuổi và thâm niên giữ đạo, đi lễ hằng ngày thì họ thường có dịp xét mình, nên khi tâm hồn bất an vì những lầm lỗi, thì họ tìm đến với bí tích Giải tội. Hơn nữa tâm lý của người lớn tuổi có xu hướng sống nội tâm nhiều hơn người trẻ tuổi. Vì vậy bí tích Hoà giải cũng là cơ hội để họ bộc lộ suy nghĩ thầm kín, lấy lại sự bình an. Xét trong chiều kích ơn thánh, người tín hữu tin rằng ơn Chúa sẽ bù đắp những thiếu sót của họ, nhờ vậy họ có thể sửa đổi lầm lỗi và bình an nội tâm.

Thực tế cho thấy việc tuân giữ những quy định xưng tội và rước lễ trong dịp Phục Sinh là cao nhất. Dịp này cũng có sự xuất hiện của những người “đã lâu hoặc rất lâu không xưng tội”.

Nếu nhiều người trẻ chỉ xưng tội một năm một lần theo luật, thì nhiều người lớn tuổi xưng tội thường xuyên theo thói quen đạo đức. Một điều hiển nhiên, xã hội thay đổi theo giòng thời gian, những giáo dân lớn tuổi có kinh nghiệm gắn bó với những việc đạo đức và sinh hoạt của giáo xứ, đời sống đạo được nuôi dưỡng trong cộng đồng giáo xứ đơn thuần. Việc họ “giữ đạo” như đi lễ, xưng tội là thói quen đạo đức. Nếp sống đạo truyền thống có thể đã là “tính cách giữ đạo” của riêng cá nhân và không dễ bị lay động. Còn các gia đình trẻ có vẻ như không có trải nghiệm “giữ đạo” như những người thâm niên. Họ không “đồng điệu” với những giáo dân lớn tuổi trong thói quen “đi lễ thường ngày” và “xưng tội đều đặn”. Phong cách “giữ đạo” của họ là cố gắng “tuân giữ luật dạy” trong việc đi lễ và xưng tội. Nếu khi còn trẻ họ không là người có “truyền thống đạo đức” trong việc giữ đạo, thì khi đến tuổi nghỉ hưu có thể họ có cách thức “giữ đạo” riêng, sẽ không giống như “nề nếp giữ đạo” của các thế hệ trước. Vì vậy, thiết nghĩ việc giáo dục đức tin cho các tín hữu rất quan trọng. Ngay từ tuổi nhỏ, họ cần được luyện tập, hướng dẫn để hiểu ý nghĩa của các hành vi đạo đức. Khi đến tuổi khôn lớn, họ cần biết tự lựa chọn việc “giữ đạo” thay vì luật buộc. Việc giữ đạo không phải là “mặc áo” của người khác, nhưng đó là “cung cách sống đạo” của bản thân với sự xác tín trong chiều kích tâm linh. Lẽ tất nhiên, cảm nghiệm trong đời sống đức tin của một con người là quá trình thực hành, luyện tập, học hỏi và có cảm nghiệm riêng tư trong hành trình đức tin của cá nhân của người ấy.


c) Về việc đọc kinh - cầu nguyện


Việc đọc kinh sáng - tối là hành vi đạo đức rất phổ biến trong đời sống đạo của người tín hữu GPHP. Khoảng 50% vẫn thực hiện đều đặn việc đọc kinh tối - sáng, nhưng chỉ với tính cách cá nhân; chỉ khoảng 20% đọc kinh chung cả gia đình mỗi tối; 20% ít khi đọc; và 10% không bao giờ đọc.

Khi đọc kinh, các tín hữu có xu hướng cầu nguyện với tâm tình “xin ơn” hơn là “tạ ơn” và “nhận ra và sống theo thánh ý Chúa”. Đây cũng là điều dễ hiểu. Bởi trong cuộc sống thường ngày người ta phải đối diện với rất nhiều khó khăn thử thách, trong đó có những điều vượt quá khả năng giới hạn của con người và họ tìm đến Chúa để được trợ giúp, trước hết là sự trợ giúp về mặt tinh thần. Hơn nữa, cầu nguyện làm phong phú đời sống nội tâm của các cá nhân, giúp có thêm sức mạnh vượt qua những gian nan khốn khó trong cuộc sống với niềm tin “Chúa sẽ không bỏ rơi”.

Truyền thống đạo đức đọc kinh chung với mọi thành viên trong gia đình, nay không còn nhiều. Lý do là người trẻ đi học, đi làm ca, giao tế xã hội… Có khoảng 20% gia đình đọc kinh tối chung, nhưng ít khi có được đầy đủ mọi thành viên.

Việc gia đình đọc kinh tối không chỉ là hành vi cầu nguyện của cá nhân trước khi đi ngủ, nhưng còn là sự đoàn tụ và nối kết của một cộng đồng thu nhỏ. Đây cũng là cung cách “giữ đạo” rất truyền thống của giáo dân GPHP trong giai đoạn khó khăn. Trong bối cảnh xã hội công nghiệp hoá, người giáo dân cần ý thức luyện tập những thói quen, hành vi cầu nguyện riêng tư cá nhân hơn là chỉ dựa vào thói quen truyền thống. Khi việc cầu nguyện, đọc kinh có ý nghĩa đối với họ trong đời sống tâm linh, thì họ tự duy trì lòng đạo đức cá nhân. Nếu việc giữ đạo, đọc kinh chỉ dựa vào gia đình, vào tập thể, thì có thể thói quen đạo đức đó cũng trôi theo sự biến đổi từ đời sống xã hội, việc làm và tương quan gia đình.

Bên cạnh đó, đời sống đạo của các tín hữu không dừng ở nghi lễ và kinh nguyện của cộng đoàn. Xa hơn nữa, họ còn cầu nguyện cá nhân hàng ngày ở trong gia đình và ngoài xã hội. Ở góc độ lý tính, việc cầu nguyện riêng theo chiều kích cá nhân cũng phản ánh đời sống đạo theo chiều sâu nội tâm cá nhân.

Cũng có thể nhận thấy những người đi lễ ngày thường có mức độ cầu nguyện thường xuyên cao hơn những người chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật. Tuy nhiên, không thể khẳng định những người ít đi lễ thì không thường xuyên cầu nguyện. Thiết nghĩ cầu nguyện riêng là kinh nghiệm đạo đức của cá nhân với Thiên Chúa trong đời sống đức tin. Khi cá nhân cầu nguyện riêng thì cũng hiểu rằng đời sống đức tin có vai trò trong đời sống riêng tư của họ.

Thực tế cho thấy việc đọc và suy niệm Lời Chúa dường như còn khá xa lạ với một tỷ lệ phần trăm rất lớn nơi các tín hữu giáo dân GPHP. Họ chưa thật sự cảm nhận được đó là nhu cầu cần thiết trong đời sống. Giáo phận nhiều lần khuyến khích các gia đình có Thánh Kinh trong nhà và đọc Kinh Thánh. Tuy nhiên, xem ra thói quen sống đạo của giáo dân GPHP vốn tập trung vào kinh nguyện hơn là đọc và suy niệm Lời Chúa. Điều đó cũng có nghĩa là có sách Kinh Thánh trong gia đình thì không đồng nghĩa rằng các gia đình đọc Kinh Thánh.

Theo đạo, giữ đạo và sống đạo là một quá trình xuyên suốt làm nên lối sống của người Công giáo nói chung. Trong những thập niên vô cùng khó khăn, kinh nguyện là phương thế rất hữu hiệu giúp các tín hữu “giữ đạo”. Nó cũng giúp nội tâm hoá những giá trị Kito giáo vào đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn. Tuy nhiên, ngày nay, việc các tín hữu họp nhau đọc kinh chung tối sáng ở các nhà thờ khi không có thánh lễ xem ra chỉ dành cho một số rất ít các cụ già cao niên. Chính vì thế, việc trân trọng và củng cố đời sống kinh nguyện bình dân chiều hôm, ban sáng cũng rất đáng được các mục tử quan tâm và khích lệ.


d) Việc việc tham gia giới, hội đoàn


Thông thường các cá nhân tín hữu gắn bó với một giới hay một hội đoàn nhất định. Việc tham gia các giới, hội đoàn trong các giáo xứ, một cách nào đó là thể hiện lòng đạo đức và tư cách của những người tham gia. Các hội đoàn nhằm giúp giáo dân gia tăng lòng đạo đức, là môi trường để các thành viên sống đạo và thực thi tình bác ái, đặc biệt, trong bối cảnh đời sống cộng đồng của các giáo xứ tại GPHP. Trước đây, nếu những thành viên trong giáo xứ không tham gia bất kỳ hội đoàn nào sẽ không nhận được sự tôn trọng như những người có tham gia hội đoàn. Hiện nay, người giáo dân theo lứa tuổi, đều có thể tham gia sinh hoạt một hội đoàn phù hợp trong giáo xứ. Việc tham gia các hội đoàn đạo đức trong giáo xứ ít nhiều làm nên tính đặc trưng trong các sinh hoạt lễ nghi, cộng đồng tại các giáo xứ trong GPHP.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc tham gia các hội đoàn tại các giáo xứ chưa tới 50%. Như thế, có tới trên 50% giáo dân không tham gia bất kể một đoàn thể nào. Đây là một hiện trạng đáng quan tâm, khi mà bối cảnh kinh tế, xã hội có nhiều chuyển biến, đã tác động rất nhiều đến cá nhân khi họ không tham gia các sinh hoạt mục vụ. Từ những biểu hiện này, có thể dự cảm về một viễn cảnh có những chuyển biến với xu hướng cá nhân hoá đang diễn ra khá mạnh mẽ. Nếu não trạng này nếu trở nên phổ biến sẽ làm tan vỡ các mối liên hệ cộng đồng và tạo ra những tầng lớp cư dân tôn giáo “bồng bềnh” ở trong các giáo xứ.

Một khía cạnh nào đó, hội đoàn đạo đức được thiết lập nhưng không được đồng hành hay thường xuyên quan tâm nuôi dưỡng tâm tình đạo đức, học hỏi Lời Chúa và linh đạo của hội đoàn… nên dễ xảy ra những mâu thuẫn, chia rẽ, bè phái gây gương xấu cho cộng đoàn.

Nhìn chung, đời sống đạo của người Công giáo GPHP phản ánh lòng đạo đức cổ truyền, duy trì nhiều nếp sống đạo tốt đẹp từ các thế hệ trước, với hệ giá trị đạo đức Công giáo và Nho giáo đan xen nhau. Tuy nhiên, đời sống lễ nghi của họ cũng đã xuất hiện những dấu chỉ thay đổi về quan niệm, hành vi ứng xử trong đời sống đạo. Bởi bên cạnh những giá trị đạo đức cổ truyền được nuôi dưỡng, gìn giữ của các thế hệ trước, đã xuất hiện những dấu chỉ đáng quan ngại, thách thức mà họ đang phải đối diện. Họ phải cân nhắc chọn lựa một lối ứng xử thích hợp hơn với thực tế cuộc sống. Quả thật, dưới tác động của đời sống kinh tế xã hội, lối sống của các tín hữu giáo dân đang ngày càng chuyển biến theo nhiều sắc thái ít thuận lợi cho việc “giữ đạo”, hoàn cảnh sống dễ dẫn đến hiện tượng “nhạt đạo”. Ngày càng nhiều giáo dân không tham gia sinh hoạt hội đoàn, xu hướng cá nhân hoá dường như đã và đang nhen nhóm trong các cộng đồng xứ đạo.


3. Về đời sống hôn nhân – gia đình

Đời sống đạo của người CGHP không chỉ biểu hiện qua việc thờ phượng thuần tuý, nhưng đời sống luân lý trong hôn nhân gia đình cũng là một cách sống đức tin. Nếu so sánh với tình trạng hôn nhân gia đình chung của xã hội Việt Nam hôm nay, thì đời sống gia đình Công giáo GPHP khá yên ấm. Từ việc khảo sát và qua nhận định của một số quý cha tại một số giáo xứ, người viết có thể đưa ra một đánh giá chủ quan cho rằng có khoảng 70% các cặp vợ chồng sống chung và khoảng 10% đang bị vướng mắc về các nguyên tắc hôn nhân. Số còn lại là độc thân hay goá bụa. Những giá trị gia đình Công giáo luôn được gìn giữ, bảo vệ như thế, là bởi những quan niệm về giáo dục con cái và quan niệm về lựa chọn bạn đời cho con cái mình.


a) Việc dựng vợ gả chồng

Nếu trước đây, tiêu chuẩn chọn bạn đời là người đồng đạo được đặt lên hàng đầu, hoặc chí ít họ phải chấp nhận theo đạo, thì nay tiêu chuẩn này không còn được coi trọng.

Trong quan niệm truyền thống của người Công giáo GPHP, hai tiêu chí được ưu tiên hàng đầu đối với con dâu, con rể là: đồng đạo và xuất thân trong gia đình gia giáo. Các tín hữu Công giáo đều biết rằng luật của Giáo Hội về hôn nhân rất nghiêm ngặt. Nếu ai lập gia đình với người khác đạo mà không có “phép chuẩn”[4], thì hôn nhân đó bị coi là bất hợp pháp theo luật của Hội Thánh. Cho dù hôn nhân khác đạo được Giáo Hội chuẩn nhận, nhưng tâm thức của phần lớn các bậc cha mẹ trong các gia đình Công giáo truyền thống vẫn rất e ngại sự khác biệt niềm tin tôn giáo giữa vợ và chồng. Họ lo lắng việc thực hành đức tin của con cháu mình sẽ gặp nhiều vấn đề trở ngại. Đó có thể là nguyên nhân dẫn đến những sự khác biệt trong quan niệm sống giữa hai vợ chồng và từ đó có thể dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc. Cho nên, hai vợ chồng cùng tôn giáo vẫn là yếu tố quan trọng nhất nằm trong những tiêu chí chọn bạn đời của người Công giáo GPHP. Xem ra, ưu tư này ngày nay xem ra không còn được coi là ưu tư hàng đầu nữa.

Xem ra tiêu chí ưu tiên thứ hai mà các cha mẹ Công giáo mong muốn đối với bạn đời của con cái là “gia đình gia giáo” được quan tâm hơn của yếu tố “tôn giáo”. Điều này xuất phát từ các quan niệm văn hoá cổ truyền của người miền Bắc nói chung và người Công giáo nói riêng, vốn ảnh hưởng quan niệm, triết lý của Nho giáo, một nền tảng giá trị, đạo đức quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Có lẽ, vì vậy mà các bậc cha mẹ sẽ cảm thấy an lòng hơn khi trao gởi con cái mình vào một gia đình gia giáo với mong ước, đời sống hôn nhân gia đình sẽ hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực.

Chắc chắn những lo lắng đó không thừa khi thực tế các cuộc hôn nhân khác đạo trong GPHP gia tăng hàng năm và đang gây ra rất nhiều hệ luỵ, đe doạ đời sống đạo của các gia đình Công giáo. Thực tế cho thấy những khó khăn, thách thức đối với đời sống gia đình, đặc biệt là đời sống đạo của các đôi hôn phối khác đạo. Khi chấp nhận kết hôn với những người khác đạo, đời sống đạo của người Công giáo vấp phải những khó khăn khi phải quyết định con cái sẽ theo đạo của ai. Điều này ảnh hướng lớn đến sự phát triển đời sống đạo của các con. Nếu cha/mẹ theo quan điểm để con trưởng thành mới tự chọn tôn giáo mà không cho con cái theo đạo từ sớm, chúng sẽ đánh mất các giai đoạn học học các lớp giáo lý căn bản và rất quan trọng.

Nhìn chung cho đến thời điểm hiện tại, cho dù có cái nhìn không còn quá khắt khe và quyết liệt như một tiêu chí bó buộc, nhưng trong tâm thức của người Công giáo truyền thống vẫn luôn ủng hộ cao hình thức hôn nhân đồng đạo hơn là hôn nhân hỗn hợp. Nhằm bảo vệ đời sống đạo và hạnh phúc gia đình, bản thân người Công giáo luôn ưu tiên cho việc kết hôn với người đồng đạo. Điều này cũng là căn nguyên lý giải tại sao người Công giáo có xu hướng mong muốn kết hôn với người “đạo gốc” hơn là kết hôn với người “đạo theo” hoặc với người không theo đạo.

Vấn đề hôn nhân đồng tính, mặc dù đã xuất hiện và có xu hướng gia tăng trong xã hội trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, cho đến nay, các bậc cha mẹ Công giáo ý thức rằng hình thức hôn nhân này không phù hợp với luân lý truyền thống và nhất là đi ngược với tín lý Công giáo, nên không thể chấp nhận.


b) Về vấn đề giáo dục con cái và các giá trị truyền thống

Ngoài vấn đề sinh sản, người giáo dân cũng có trách nhiệm giáo dục con cái theo tinh thần Kito giáo. Tuy nhiên, thiết nghĩ, người Công giáo GPHP, ngoài cơ sở nền tảng đức tin Công giáo, thì còn có những giá trị nhân bản của văn hoá cổ truyền rất sâu đậm mang tính vùng miền.

Nhiều cha mẹ Công giáo rất lo lắng về đời sống đức tin của con cái. Con trẻ đang sống trong một xã hội tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Nếu cha mẹ không quan tâm đúng mực, trẻ có thể sa đà vào các tệ nạn xã hội. Nhưng nếu một đứa trẻ được cha mẹ săn sóc, nuôi dưỡng, ươm mầm đức tin từ tuổi thơ, sẽ giúp trẻ có thể vượt qua những cám dỗ để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp, có ích hơn cho Giáo hội và xã hội. Việc cho trẻ tham gia các lớp giáo lý ngay từ nhỏ là cơ hội để giúp các em hiểu biết về đạo, nuôi dưỡng đức tin và luật Chúa. Cùng với đó, đi lễ cũng là cách thức giúp trẻ ươm mầm đức tin và thêm phần yêu mến Chúa.

Bên cạnh việc giáo dục đức tin và tri thức thì giáo dục nhân bản là điều quan trọng. Gia đình là môi trường lý tưởng để truyền lại những chuẩn mực, phép tắc từ thế hệ trước cho thế hệ sau, cụ thể là từ cha mẹ đến con cái. Nhờ sự hướng dẫn của người lớn mà ngay từ nhỏ một đứa trẻ đã học hỏi những hành vi, thái độ, cử chỉ tương hợp với các mối quan hệ xã hội. Dần theo năm tháng, những trải nghiệm đó được tích luỹ, trẻ thực hành quá trình nội tâm hoá. Từ đó, những tri thức nhân bản này trở thành vốn sống cá nhân, và không ngừng được tích luỹ, tăng dần theo thời gian và trải nghiệm trong cuộc sống đời thường.

Các cha mẹ Công giáo hiện nay thường tập trung giáo dục con cái ở ba khía cạnh: đức tin, tri thức và nhân bản. Sự hoà quyện chặt chẽ giữa ba khía cạnh này giúp hun đúc nên những con người có ích cho xã hội và Hội Thánh.

Tuy vậy, bên cạnh những bậc cha mẹ đã và đang quan tâm tới việc giáo dục đức tin cho con cái, thì cũng có một bộ phận các cha mẹ không quan tâm hay tha thiết với công việc này. Những bậc cha mẹ này có thể dành rất nhiều thời gian và tiền bạc để con cái được học rất nhiều kỹ năng và kiến thức xã hội, nhưng lại rất sợ con cái không có thời gian, sức khoẻ và khả năng để theo học các chương trình và kỹ năng ở nhà trường.

Việc giáo dục con trẻ ngày nay quả là một thách thức đối với các phụ huynh. Khi cánh cửa xã hội mở rộng, cuộc sống của con người sẽ bị chi phối bởi nhiều quan niệm, giá trị khác nhau. Tuy nhiên, đời sống đạo của họ cũng đã và đang đối diện với những thách thức trong lối sống xã hội hiện đại. Nếu không được quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản Kito giáo thì khi bước vào đời, các em sẽ rất khó khăn hay không có khả năng khi phải sống, chọn lựa với các vấn đề luân lý.


4. Sự chuyển biến trong suy nghĩ của người giáo dân

Có thể nói, trước những biến động về kinh tế - văn hoá – xã hội trong những năm gần đây, đời sống đạo của giáo dân cũng phải đối diện với những thách thức mới. Một trong những thách thức đó liên quan đến đời sống hôn nhân. Chủ nghĩa cá nhân lên ngôi, còn gia đình dường như không là chốn dừng chân cuối cùng của các thành viên. Người ta có xu hướng đi tìm những thứ và những điều được cho là phù hợp với sở thích của mình, kể cả việc chọn lựa bạn đời. Nếu không hợp với nhau trong quá trình chung sống thì họ nghĩ ngày đến việc chia tay để tìm một người khác. Vì thế, tình trạng ly hôn/ly dị đang có chiều hướng gia tăng mỗi năm mỗi gia tăng ở cả thành thị lẫn vùng nông thôn, với đa dạng các nguyên nhân.


a) Quan điểm về ly hôn

Tôn chỉ của hôn nhân Công giáo là “đơn hôn” và “vĩnh hôn”. Tuy nhiên, theo một thống kê của nhà nước, hiện nay (2024) cứ bình quân 2,7 cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn, tức là cứ 3 đôi kết hôn thì có một đôi ly dị[5]. Những con số này có chiều hướng mỗi năm một gia tăng trước bối cảnh tục hoá. Và gia đình Công giáo cũng không nằm ngoài vòng xoáy của cơn lốc đó. Hôn nhân Công giáo cũng gặp những khó khăn trong tương quan gia đình, đời sống kinh tế - tương quan xã hội.

Đứng trước thực trạng xã hội có nhiều đổi thay như hiện nay, người Công giáo cũng có chiều hướng cá nhân hoá trong lối sống và thực hành các giá trị luân lý của Giáo Hội dạy, đặc biệt là ở nhóm người trẻ. Có một tỷ lệ không nhỏ người giáo dân có quan niệm chấp nhận vấn đề ly dị và cảm thấy ly dị là chuyện có thể chấp nhận được. Khi không còn yêu thương nhau nữa thì giải thoát cho nhau bằng việc ly dị là điều hiển nhiên. Phải chăng trong bối cảnh tư duy của thế giới quan hiện đại, tâm trí người giáo dân xuất hiện sự giằng co giữa việc sống theo các giá trị đạo đức và hoàn cảnh thực tiễn mà họ phải gánh chịu. Họ vẫn biết ly dị là sai, nhưng đó lại là một giải pháp của cuộc sống khi gặp khó khăn, bế tắc.

Điều này phản ánh phần nào sự nảy sinh tư duy lý tính khi cá nhân đứng trước các quyết định quan trọng trong cuộc đời. Những điều Giáo Hội dạy không còn “ràng buộc” nữa. Họ bắt đầu suy nghĩ và chọn lựa mang tính cá nhân. Trong tình huống này, họ bộc lộ tư duy chọn lựa trong các tín điều, cái gì hợp thì lấy, cái gì không thích thì bỏ. Nhưng cũng có những tình huống bế tắc thúc đẩy họ đi đến chọn lựa, quyết định trái với giáo huấn của Giáo Hội. Vì thế, trước những thực tại khó khăn của một số gia đình hiện nay, rất cần các mục tử quan tâm đặc biệt đến họ trong việc chăm sóc mục vụ và lãnh các bí tích.


b) Quan điểm về việc quan hệ tình dục trước hôn nhân

Giáo huấn của Giáo Hội dạy rằng hôn nhân Công giáo là một bí tích thánh thiêng. Do đó, để bí tích này được trọn vẹn thì Giáo Hội không chấp nhận các bạn trẻ có quan hệ tính dục trước khi được chính thức công nhận là vợ chồng. Cho đến thời điểm hiện nay, không được quan hệ tình dục trước hôn nhân vẫn còn được xem là nguyên tắc đạo đức cần phải tuân giữ đối với các đôi bạn trước khi tiến tới hôn nhân.

Nếu như phần lớn thế hệ cao niên không chấp nhận hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân, thì ngược lại, xu hướng mới ngày càng phổ biến của một tỷ lệ không nhỏ người trẻ Công giáo cho rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân là hành vi… có thể chấp nhận. Hơn nữa, họ cảm thấy… bình thường trước vấn đề này. Theo họ, việc quan hệ trước hôn nhân không còn là vấn đề nghiêm trọng. Họ chấp nhận hoặc có cách nhìn bình thường trước hành vi trái với luân lý Kito giáo.

Và nếu như các thế hệ trước, việc có thai trước hôn nhân được xem như một điều tội lỗi vì vi phạm luân lý Kito giáo và giá trị văn hoá, đạo đức của cộng đồng, thì trong bối cảnh xã hội hiện nay, ngay cả tại các giáo xứ miền quê của GPHP, những thay đổi trong nhận thức và lối ứng xử của những người trẻ, đã khiến cho vấn đề có thai trước hôn nhân không trở thành vấn đề quá quan trọng nữa. Trong những hoàn cảnh con cái có thai ngoài hôn nhân, các bậc cha mẹ phải ứng xử như thế nào? Họ phải chấp nhận những thực tế của đời sống hiện đại nảy sinh? Họ sẽ chấp nhận vì yêu quý sự sống của đứa trẻ? Họ phải chấp nhận vì chuyện đã lỡ? Họ chấp nhận vì đó là chuyện tình cảm của con cái hay là không thể chấp nhận? Hiện nay dư luận xã hội đối với tình trạng có con trước hôn nhân cũng đang có xu hướng ít nghiêm khắc hơn. Các bậc cha mẹ có cái nhìn cảm thông và vị tha hơn. Tuy vậy, thực tế cho thấy phần lớn các bậc cha mẹ Công giáo GPHP đang bối rối trong việc ứng xử những tình huống khó khăn này.


c) Quan niệm về số con cái và lựa chọn giới tính

Hôn nhân gắn liền với việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, nhờ vậy mà thể chế gia đình được duy trì và bảo tồn. Bên cạnh đó, người Công giáo thường quan niệm rằng việc gia đình có đông con cháu là hồng ân Thiên Chúa ban. Quan niệm này cũng gần gũi với quan niệm dân gian của người Việt, xem việc sinh nhiều con cháu là phúc đức của tổ tiên, dòng họ. Tuy nhiên, quan niệm này có vẻ như xa lạ với các thế hệ trẻ. Ở độ tuổi càng trẻ thì xu hướng cá nhân hoá càng cao, dù điều kiện kinh tế có khá giả thì đa phần người trẻ đều có xu hướng sinh ít con với lý do để nuôi dạy cho tốt.

Thực tế cho thấy, trong bố cảnh xã hội hiện nay, mặc dù chính sách kế hoạch hoá gia đình của nhà nước quy định mỗi gia đình chỉ nên có tối đa 2 con đã được huỷ bỏ. Tuy nhiên, hậu quả của chính sách này dường như đã đi vào nếp sống của các gia đình trẻ do ảnh hưởng của truyền thông xã hội, “dù gái hay trai chỉ 2 là đủ” hay “mỗi gia đình dừng lại ở 2 con để nuôi dạy cho tốt”. Những điều này cũng đã thực sự ảnh hưởng đến quan niệm sinh sản của người Công giáo, nhất là đối với các gia đình trẻ.

Việc quyết định số con sinh ra ở mỗi gia đình Công giáo là một vấn đề phức hợp, chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố kinh tế - xã hội – tôn giáo. Số các trẻ em được sinh ra trong các gia đình Công giáo đang giảm dần hoà vào xu hướng chung của xã hội. Tỷ suất sinh giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế và xã hội. Đó là quá trình tất yếu mà người Công giáo GPHP khó có thể cưỡng lại được. Có thể thấy, trong trào lưu tục hoá của bối cảnh đô thị hoá và hiện đại hoá mạnh mẽ tại các địa phương thuộc GPHP như hiện nay, thì những điều kiện kinh tế, tính chất công việc là những nhân tố quyết định ảnh hưởng đến việc lựa chọn số con sẽ sinh.

Có thể khẳng định việc hạn chế sinh con của các gia đình Công giáo cũng là một trong những lý do có tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến sự suy giảm ơn gọi tu trì trong GPHP những năm qua!

Vấn đề liên hệ cũng được đặt ra là nhu cầu sinh con trai vẫn tiềm ẩn trong nếp nghĩ của nhiều người. Như nhiều nước Á Đông, văn hoá Việt vốn coi trọng con trai. Vì thế, Việt Nam đang đối mặt với thách thức mất cân bằng giới tính. Trong cuộc toạ đàm về sự mất cân bằng giới tính khi sinh, ngày 07/03/2022 tại Hà Nội, các dữ liệu cho thấy tỉ suất giới tính khi sinh của Việt Nam là 111.5 bé trai/100 bé gái[6].

Có ba lý do chính giải thích cho hiện tượng chênh lệch giới tính của trẻ sơ sinh, đó là: tâm lý ưa thích con trai, sự sẵn có của công nghệ - dịch vụ y tế và mức sinh thấp. Những nguyên nhân này dẫn đến hệ luỵ là lựa chọn giới tính thai nhi, mà cụ thể dựa vào các công nghệ siêu âm, xét nghiệm, rồi kể cả việc áp dụng các biện pháp trước khi quyết định có con nhằm có được giới tính con như mong muốn. Điều tệ hại hơn nữa là nhiều thai nhi đã bị loại bỏ khi giới tính của chúng không như cha mẹ chúng mong đợi!

Mặc dù phần lớn giáo dân GPHP đều cho rằng không thể chấp nhận việc lựa chọn giới tính thai nhi, vì điều này trái với Giáo huấn của Hội Thánh. Nhưng bên cạnh đó, một thiểu số có cách nhìn khác. Họ xem đó là bình thường và có thể chấp nhận được. Do ảnh hưởng bởi truyền thông thế tục, ngay một số giáo dân ở miền quê cũng có cái nhìn “thông thoáng” hơn về vấn đề này. Cho dù họ biết rằng việc lựa chọn giới tính của thai nhi là đi ngược lại với giáo lý của Giáo Hội.

Giáo dân miền Bắc, dù thừa hưởng nền giáo dục Kito giáo, nhưng sự ảnh hưởng của nền văn hoá Nho giáo vẫn là nỗi ám ảnh với nhiều người. Quan niệm phân biệt giới tính cũng có ảnh hưởng không nhỏ trong nhận thức, cơ cấu và hành xử trong các tổ chức của Giáo Hội tại địa phương.

Người Công giáo sống đức tin không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng, nhưng bao gồm cả việc sống theo Giáo huấn của Hội Thánh, trong những vấn đề tín lý và luân lý. Mục đích của công cuộc tái truyền giáo không gì khác hơn là giúp các tín hữu sống đức tin của mình cách mạnh mẽ, năng động theo tinh thần ấy.


III – Tái truyền giáo theo hướng dẫn của Huấn Quyền

Vào năm 2012, Giáo hội hoàn vũ đã tổ chức một kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ XIII về chủ đề Tân Phúc Âm hoá (New Evangelization-World synod of Bishops).

New Evangelization - Tân Phúc Âm hóa có thể được hiểu là loan báo Tin Mừng theo cách mới: mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và mới trong cách diễn tả. Cũng trong tinh thần ấy, nhưng người viết sử dụng cách nói khác, “Re - Evangelization” tức “tái truyền giáo” có ý làm nổi bật mục tiêu là khôi phục, làm sống lại niềm tin nơi một số thành phần dân Chúa. Cách nói này gần gũi và phù hợp với tâm thức người Việt hơn. Đức Bênêđictô XVI, trong Thánh lễ trọng thể khai mạc Thượng HĐGM XIII tại Rôma, ngày 07/10/2012, đã nói: “... Chủ yếu hướng tới những người, tuy đã được rửa tội, nhưng đang xa lìa Giáo Hội, và sống không hề tham chiếu luân lý Kitô giáo ....., để giúp họ tái gặp gỡ Chúa, là Đấng duy nhất làm cho cuộc sống chúng ta được ý nghĩa sâu xa và an bình; để giúp tái khám phá đức tin, là nguồn mạch Ân sủng mang lại vui mừng và hy vọng trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội.”[7]

Việc tái truyền giáo, theo Đức Thánh cha Phanxico trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 28, là nhằm để: “sinh động hoá bởi lửa của Thần Khí, để đốt cháy tâm hồn những tín hữu thường xuyên tham dự việc phụng tự cộng đoàn và tụ họp vào Ngày của Chúa để được nuôi dưỡng bằng Lời và Bánh sự sống trường sinh của Ngài”.

Như thế, đối tượng của việc tái truyền giáo là những anh chị em tín hữu. Tuy họ đã được rửa tội, nhưng vì một lý do chủ quan hay khách quan nào đó, đưa đẩy họ đang sống xa lìa đời sống Hội Thánh.

Như đã đề cập ở mục số 2 của phần I (Đời sống đức tin của người Công giáo GPHP và các hệ giá trị). Một lý do rất quan trọng trong lịch sử đã để lại hậu quả rất nặng nề làm cho người Công giáo miền Bắc nói chung, và các Kito hữu GPHP nói riêng đó là ý thức hệ Xã hội Chủ nghĩa. Ý thức hệ này đã làm cho các tín hữu đánh mất cảm thức tôn giáo. Rất nhiều người mất đức tin. Số khác tuy chưa mất đức tin nhưng không còn cảm thấy nhu cầu sống đức tin nữa. Ở một số giáo xứ trong GPHP, các bậc cao niên đều khẳng định là giáo xứ “toàn tòng”, tuy nhiên tỷ lệ giáo dân đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật chưa tới 50%. Và cũng chính vì thế, các hành vi ứng xử trong mọi mối tương quan từ trong gia đình đến ngoài xã hội không theo những chuẩn mực đạo đức truyền thống cũng như tinh thần Kito giáo.

Ngày nay, một lý do nghiêm trọng khác đang diễn ra, tuy rất âm thầm, nhưng tác động rất mạnh mẽ và hệ quả của nó làm cho nhiều người đánh mất dần tính truyền thống sùng đạo của mình, đó là tình trạng tục hoá (Secularization). Từ điển Công giáo của Ủy ban Giáo lý Đức tin thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, năm 2016, định nghĩa tục hoá như sau:

Tục hoá, còn gọi là thế tục hoá, là khuynh hướng chối bỏ các giá trị thiêng liêng và hướng về những điều phàm tục…Hiện nay thuật ngữ ‘tục hóa’ chỉ việc Kitô giáo mất dần vị trí ưu việt trong gia đình, xã hội và ngay trong các cộng đoàn Kitô hữu, thay vào đó là khuynh hướng hưởng thụ vật chất.”[8]

Như vậy, Giáo Hội rất cần có một nỗ lực tái truyền giáo, để có thể giúp các tín hữu nguội lạnh hay sống xa rời với Giáo huấn của Hội Thánh trở lại, sống đức tin trong sáng và sâu xa hơn. Có thể nói, hiện tượng tục hóa luôn ở vị trí chiếm ưu thế, tác động đến hầu hết sinh hoạt của con người đương đại. Việc nhận ra đúng bản chất của vấn đề và có những phương thế thích đáng để tái truyền giáo là một thách thức lớn lao. Bởi theo kinh nghiệm dân gian: Chẳng thà làm cái mới nhiều khi còn dễ hơn là sửa lại cái cũ ương dở. Tuy nhiên, đây lại là một mối bận tâm rất lớn của cả Hội Thánh. Chính vì thế, năm 2012, Đức Thánh Cha Benedic XVI đã triệu tập một THĐGM thế giới bàn về vấn về này. Kết thúc kỳ THĐ, ngài gửi Sứ điệp “THE NEW EVANGELIZATION FOR THE TRANSMISSION OF THE CHRISTIAN FAITH” cho dân Chúa nhấn mạnh như sau: “Thực vậy, khắp nơi đều cảm thấy nhu cầu hồi sinh đức tin, vì đức tin đang có nguy cơ bị lu mờ trong những bối cảnh văn hóa cản trở không cho đức tin trở nên sâu xa hơn nơi bản thân, cản trở sự hiện diện của đức tin trong xã hội, nội dung minh bạch và những thành quả đi kèm của đức tin.”[9]

Sứ điệp đã đưa ra những gợi ý về việc Tân Phúc âm hoá hay “tái truyền giáo” qua trình thuật về người phụ nữ xứ Samaria (Ga 4,1-42) đã thú nhận với những người đồng hương của mình: “Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Và lời loan báo này - có kèm theo câu hỏi dẫn vào đức tin: “Phải chăng ông ấy là Đức Kitô?” - chứng tỏ ai đã nhận được sự sống mới từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, thì đến lượt mình, họ không thể không trở thành người loan báo sự thật và hy vọng cho tha nhân. Người phụ nữ tội lỗi hoán cải trở thành sứ giả của ơn cứu độ và dẫn cả dân thành về với Chúa Giêsu. Từ sự đón nhận chứng từ, dân chúng sẽ tiến đến kinh nghiệm bản thân về cuộc gặp gỡ: “Không phải vì những lời của bà mà chúng tôi tin, nhưng vì chính chúng tôi đã được nghe và biết rằng ông này thực là Đấng Cứu Thế.” (Ga 4,42)

Từ những đòi hỏi của Tin Mừng và Giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta nhận ra lời thôi thúc, mời gọi làm sao để khơi thắm tinh thần và lòng đạo đức nhiệt thành nơi các tín hữu. Vì lý do lòng đạo vốn có của các thế hệ tiền nhân đã bị lu mờ do những biến động của chính trị - xã hội trong lịch sử và những ảnh hưởng lớn lao của trào lưu thế tục. Đời sống đạo của GPHP chưa hẳn đã phục hồi sau những biến cố lịch sử, nay lại phải đối diện với một thực tế mới đang tiếp tục làm cho đức tin bị lu mờ trong bối cảnh xã hội, với nền văn hóa, chính trị, xã hội và tôn giáo xa lạ với đức tin Công giáo. Những ý thức hệ mới này cản trở, không những không làm cho đức tin Công giáo trở nên sâu sắc hơn nơi các Kito hữu, mà còn cản trở sự hiện diện của đức tin trong đời sống cá nhân cũng như xã hội. Chính vì thế, tái truyền giáo không phải là bắt đầu lại từ đầu, nhưng với tâm hồn tông đồ của thánh Phaolô như Ngài đã từng nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng.” (1 Cr 9,16). Nếu như niềm tin Kitô giáo chưa bị chìm trong tình trạng mất hút, thì xem ra nó cũng không được sáng rõ trong cuộc sống, nên nỗ lực tái truyền giảng Tin Mừng hẳn phải là một mối bận tâm lớn lao của mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt là các linh mục và tu sĩ tại GPHP. 

Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxico viết một cách rất mạnh mẽ về vấn đề này như sau: “Vì vậy, chúng ta hãy ra đi, ra đi để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kito. Ở đây tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh điều tôi đã từng nói cho các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires: Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục.” [số 35]

Tóm lại, việc tái truyền giáo là một vấn đề mang tính cấp bách và là việc làm được thẩm quyền của Hội Thánh hết sức quan tâm. Cách riêng, đối với thực tế đời sống đạo tại GPHP, việc tái truyền giáo cũng là một nhu cầu có thực và rất cần thiết. Để việc tái truyền giáo thực sự đem lại hiệu quả, thiết nghĩ, việc xem xét thấu đáo các yếu tố văn hoá, con người, bối cảnh; học hỏi giáo huấn Lời Chúa và của Hội Thánh về vấn đề này để tìm ra mối tương quan giữa các giá trị, từ đó có thể đưa ra một “chiến lược” mục vụ (pastoral stratery) dài hạn với những bước đi cụ thể, thiết thực, vững chắc.

IV – Mối tương quan giữa các hệ giá trị

Để thực hiện hướng mục vụ tái truyền giáo cho những con người cụ thể, trong một địa bàn nhất định và trong một giai đoạn xác định, chúng ta không thể không tìm ra mối tương quan giữa các hệ giá trị đã và đang ảnh hưởng trên môi trường và tâm thức của những con người ấy cùng những vấn đề đang tồn tại song hành trong bối cảnh sống của họ.

Trong phần này, người viết sẽ vừa phân tích và ghi nhận những ảnh hưởng của các hệ giá trị trên tâm thức và lối sống của người Công giáo GPHP, vừa ghi nhận những “xung đột” giữa các giá trị ấy. Sự thẩm định và đánh giá đó sẽ làm nổi lên những “vấn đề” trong đời sống của các tín hữu trong Giáo phận để rồi từ đó đề nghi những “giải pháp” cho những “vấn đề” này.


1. Đức tin và văn hoá truyền thống

Đời sống đạo của người Công giáo GPHP hiện nay phản ánh một thói quen đạo đức cổ truyền từ truyền thống cộng đồng đã được kiến tạo bởi các nhà truyền giáo Dòng Đaminh Tỉnh Dòng Mân Côi (Tây Ban Nha) từ năm 1756[10]. Hầu hết các giáo xứ trong GPHP đang có những hình thức sống đạo truyền thống, gắn bó với những hình thức lễ nghi cổ truyền như ca vãn, ngắm nguyện, rước sách, đóng đinh táng xác Chúa... Các hình thức diễn tả đức tin truyền thống này đã có từ xa xưa và có một giá trị không thể phủ nhận trong việc truyền giáo, bởi nó phù hợp với tâm thức của người miền Bắc nói chung và người dân miền duyên hải GPHP nói riêng. Nó cũng là một phương thế rất hữu hiệu, giúp nuôi dưỡng đời sống đức tin của người giáo dân GPHP trong những thập niên rất khó khăn của thế kỷ trước. Các thế hệ giáo dân lớn tuổi rất gắn bó với những hình thức sống đạo qua các lễ nghi sống động và đơn sơ ấy. Những hình thức diễn tả đức tin ấy đã trở thành như một “nét văn hoá sống đạo” của người dân miền sông nước miền Bắc bộ nói chung và người giáo dân GPHP nói riêng.

Cho dù các hình thức truyền giáo và sống đạo truyền thống có giá trị, nhưng trong hoàn cảnh mới, để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng cho các thế hệ trẻ ngày nay, chắc chắn chúng ta không chỉ dừng lại ở những hình thức lễ nghi truyền thống ấy. Có thể nói các thế hệ tiền nhân xưa thật tuyệt vời khi biết cách hội nhập nội dung đức tin Kito giáo vào “khung” những hình thức lễ hội, văn hoá cộng đồng vùng miền, nhờ đó các chân lý đức tin và các giá trị, giáo huấn Kito giáo được đón nhận cách nhẹ nhàng, tự nhiên và dễ dàng như một phần của đời sống văn hoá tâm linh. Tuy nhiên, ngày nay, bên cạnh những cách thức diễn tả nội dung đức tin bằng những hình thức truyền thống tuyệt vời ấy, các mục tử cũng rất cần có những hình thức sống đức tin khác nữa phù hợp với quan niệm và tâm thức của con người thời đại.


2. Đức tin và những vấn đề mang tính thời đại

Nét văn hoá truyền thống của người miền Bắc rất đề cao tính cộng đồng. Các hình thức văn hoá dân gian đều mang tính cộng đồng. Vì thế, các thế hệ người Công giáo được đón nhận đức tin và sống đức tin nhờ “nét văn hoá cộng đồng” này.

Tuy nhiên, ở một góc độ khác, những thế hệ giáo dân trẻ tuổi rất năng động, có một lối suy tư về lối sống đạo rất khác với các thế hệ cha ông. Như thế, rất có thể, đối với những người quen với khung cảnh đạo đức cổ truyền, thì những nhóm giáo dân “thiểu số” này có thể bị xem là “nhạt đạo”, đôi khi bị xem là “lệch lạc”.

Nhưng đứng trước một bối cảnh với những chuyển biến không ngừng của xã hội đương đại, những người trẻ ý thức họ phải đối chọi với tình cảnh sống phức tạp, đôi khi bế tắc, những ứng xử của bản thân để giải quyết những vấn đề nan giải trong cuộc sống không phải là những thực hành luân lý đơn thuần như các thế hệ cha ông. Đôi khi, các tín hữu giáo dân trẻ hôm nay bối rối khi đứng trước một sự chọn lựa không đơn thuần là những ràng buộc về tiêu chí đạo đức, lề luật của Giáo Hội dạy. Các giá trị đạo đức Kito giáo nhằm giúp cho con người thăng tiến nhưng cũng có thể đang là những gánh nặng, những “thánh giá” của cuộc đời mà cá nhân họ phải mang vác, phải vượt qua.

Ở khía cạnh khác, nhiều tín hữu trẻ đã bị “bứng” ra khỏi môi trường giáo xứ và gia đình, khỏi bối cảnh giữ đạo truyền thống và thực hành tôn giáo tại cộng đồng giáo xứ quê hương và bầu khí nâng đỡ đức tin của những sinh hoạt đạo đức quen thuộc ấy, nên họ không còn cảm thấy nhu cầu tâm linh, rất dễ bỏ cầu nguyện và xa rời các sinh hoạt đạo đức, dần đánh mất căn tính tôn giáo.

Như thế, nhu cầu giảng dạy để trau dồi, cung cấp những kiến thức giáo lý, để nâng đỡ và đáp ứng khao khát, những đòi hỏi không ngừng; nhu cầu được nuôi dưỡng đời sống tâm linh, được bồi dưỡng và đào luyện đời sống thiêng liêng là điều rất cấp thiết và là bổn phận không những quan trọng, cấp thiết, mà và còn là một trách nhiệm rất vất vả và đòi hỏi đối với các mục tử.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại và thế tục hoá ngày nay, có những khác biệt trong cách diễn tả đức tin giữa các thế hệ, các tín hữu trẻ rất cần được thấu hiểu và đối thoại, thay vì vội vã kết án hay “xếp hạng” những chỉ báo của xu hướng hiện đại hoá, lý tính hoá, thậm chí thế tục hoá là “kém đạo đức”. Cũng vậy, xu hướng lý tính hoá ấy rất có thể không đồng nghĩa với việc xuống cấp về mặt đạo đức, luân lý, mà nó đơn thuần chỉ là sự chuyển biến đời sống đạo theo một chiều hướng khác, theo tâm thức của người trẻ. Chính vì vậy, một yêu cầu tế nhị đối với các mục tử trong hiện tình này, là một thái độ cởi mở, trân trọng, cầu thị, lắng nghe, cảm thông và bao dung theo tinh thần Kito giáo trước những điều mới mẻ và khác biệt nơi các tín hữu giáo dân, đặc biệt nơi các bạn trẻ.


3. Đức tin và sự lựa chọn những giá trị

Bối cảnh kinh tế xã hội, chính trị và văn hoá Việt Nam, đặc biệt nơi những thành thị năng động và phát triển nhanh trong địa bàn GPHP hiện nay được xem là một cuộc chuyển biến xã hội có tác động không ngừng và đáng kể đến những lối ứng xử của người dân nói chung và của các tín hữu Công giáo nói riêng. Về phương diện văn hoá và luân lý tự nhiên, nhiều hệ thống giá trị đạo đức truyền thống được xây dựng và vun trồng qua nhiều thế kỷ đang bị lung lay và có nguy cơ ngã đổ. Ngay cả trong lĩnh vực tâm linh, nơi các giáo xứ ở các thành phố, tình trạng trong một gia đình, thế hệ ông bà, cha mẹ vẫn giữ đạo rất sốt sắng, nhưng con cháu không còn giữ đạo, không thừa hưởng truyền thống đức tin trong gia đình. Đáng buồn, những trường hợp như vậy không còn là cá biệt. Bởi có những giáo xứ, nếu so sánh số tín hữu trước đây vài ba thập niên với con số hiện tại, số nhân danh gốc giảm đi đáng kể. Một trong những lý do biến động về số nhân danh là sự đánh mất đức tin. Chuyện về những thánh lễ an táng, chỉ có người nằm trong quan tài có đạo, còn các con, cháu thì không, không phải là hiếm. Tình trạng trong một gia đình, chỉ có cha mẹ thực hành đạo hay nửa theo đạo, nửa còn lại thì không cũng không phải là những trường hợp cá biệt. Hay trong hội đoàn đạo đức, có các thành viên đang sống trong tình trạng ly dị, tái hôn khá cao rất phổ biến. Có những giáo xứ có thể được coi là … cá biệt, tỷ lệ các gia đình ở trong tình trạng “rối” lên tới trên 30%, theo sự chia sẻ của cha chính xứ!

Các Kito hữu thế hệ trẻ, từ 8x trở lên đang phải đối diện với những thách thức về những quan điểm liên quan đến việc áp dụng Giáo huấn Kito giáo vào đời sống về vấn đề luân lý, công bằng xã hội, nhất là về vấn đề luân lý tính dục, sinh sản và hôn nhân gia đình. Xuất hiện những xu hướng cá nhân hoá trong cách nhìn nhận các quan điểm về đạo trong đời sống xã hội, cũng như cách thể hiện tinh thần Kito giáo trong đời sống hàng ngày. Có thể có những nhận xét cho rằng các tín hữu ở các thành thị và nhóm giáo dân trẻ tuổi là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các xu thế tục hoá, so với các giáo xứ vùng nông thôn ít nhiều vẫn bảo lưu đậm nét màu sắc tôn giáo trong khung cảnh đạo đức cổ truyền của GPHP. Tuy nhiên nhận xét đó xem ra chỉ còn đúng cách đây hai, ba thập niên. Bởi vì môi trường xã hội và các phương tiện truyền thông hiện đại hôm nay đã xoá đi sự khác biệt rất đáng kể giữa các vùng nông thôn và thành thị.

Nhìn vào các sinh hoạt đạo đức, mục vụ và xây dựng kiến thiết tại các giáo xứ trong GPHP, chúng ta có thể rất phấn khởi vì những sinh hoạt mục vụ đang nở rộ, các hình thức thể hiện đức tin rất phong phú… Tuy nhiên, mặt khác, đã thấy xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng trong đời sống đạo nơi các tín hữu. Họ đang phải đối diện với những chọn lựa, những xung đột giữa niềm tin và nhu cầu riêng tư bản thân. Bên cạnh đó, ngày nay có những người trẻ rời bỏ Giáo Hội Công giáo, vì thiếu hiểu biết Thánh Kinh, đã dễ dàng chuyển sang các nhóm Tin lành; có những nhóm lạc giáo như nhóm “Sứ điệp từ trời”, nhóm “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ”, hay nhóm “Trừ quỷ Bảo Lộc”… đang âm thầm len lỏi vào trong một số địa phương để lôi cuốn các tín hữu rời xa con đường đức tin chân chính. Về phương diện xã hội, môi trường họ đang sống làm cho họ phải cân nhắc và lựa chọn giữa các trách nhiệm, các mối quan hệ mâu thuẫn của sự trung thành nhiều chiều. Vì vậy, việc lựa chọn lối sống làm sao vừa duy trì đức tin tinh tuyền, vừa đáp ứng nhu cầu riêng tư bản thân là một thách thức nội tâm đối với các cá nhân trong quá trình vận động, phát triển của xã hội… Trong bối cảnh ấy, sự trăn trở, chọn lựa của người giáo dân bộc lộ ra những xu hướng đáng phải suy gẫm trong tình hình đời sống đạo hiện nay.

Thực tế cũng cho thấy có những trăn trở, bối rối, thậm chí xung đột về chọn lựa giữa thế hệ trẻ với các thế hệ cao niên trong trong sự giao thoa cách sống đạo truyền thống và những tác động mới của hoàn cảnh xã hội và văn hoá hiện đại. Cũng có những dấu hiệu cho thấy một số hình thức sống đức tin truyền thống rất tốt lành, nhưng xem ra lại có phần xa lạ với giới trẻ. Thiết nghĩ, trong một bối cảnh mới thì cũng cần có thêm những cách thế sống đức tin khác phù hợp với từng đối tượng.

Các tín hữu hôm nay đang phải sống trong thời đại được gọi là thời “VUCA”[11]. Họ bối rối trước những trào lưu của một xã hội hiện đại, tác động đến đời sống đức tin như: chủ nghĩa tương đối hoá, chủ nghĩa thế tục tin vào khả năng của khoa học kỹ thuật hơn tin vào quyền năng thiêng liêng. Do ảnh hưởng của những trào lưu thế tục, có những suy nghĩ cá nhân khác với Giáo huấn tín lý và luân lý của Hội Thánh Công giáo.

Vì thế, một lối sống đạo thiếu hiểu biết Giáo lý sẽ dẫn đến một đức tin sơ sài; một đời sống đạo thiếu hiểu biết Lời Chúa sẽ dẫn đến việc chỉ chú trọng đến hình thức và những sinh hoạt mang tính hội hè, đình đám. Cũng vậy, thói quen lượng giá đời sống đức tin của một cộng đoàn qua những hình thức tổ chức xôm tụ, hoành tráng bên ngoài mà ít nhấn mạnh đến đời sống nội tâm và tình bác ái có thể dẫn đến sự lệnh lạc đức tin. Người tín hữu có thể rất tin Chúa, nhưng chưa hiểu rõ Chúa là ai đối với họ và sống theo Lời của Ngài như thế nào. Chính vì đời sống đức tin hời hợt nên việc thực hành đức đức tin giống như các lễ hội. Và vì thế, khi gặp gian nan thử thách, họ dễ ngã lòng và chao đảo.

Tóm lại, người Công giáo GPHP có một nét rất đẹp được thể hiện trong đời sống của trải qua bao thế hệ và vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong bối cảnh khó khăn của các thế hệ trước, các tín hữu đã từng là nạn nhân của kỳ thị và đàn áp dưới nhiều hình thức, hình thức sống đạo vừa đơn sơ vừa sốt sáng ấy đã giúp họ trung thành với Thiên Chúa, với với Hội Thánh và bảo vệ đức tin. Còn thời nay, mặc dù những bách hại như thời cha ông không còn nữa, nhưng những cám dỗ để người tín hữu bỏ đức tin rất nhiều và rất đa dạng. Người có tinh thần lạc quan cũng không thể không nhận thấy và bận tâm với những thách thức đang hiển hiện hoặc còn tiềm tàng trong đời sống. Bởi vậy, tái truyền giáo là một nhu cầu có thực trong môi trường đô thị hoá, công nghiệp hoá, và tục hoá đang phát triển tuy âm thầm nhưng có sức lan toả rất nhanh tại địa bàn GPHP.


V – Những đề nghị cho sứ vụ tái truyền giáo tại GPHP


Dựa vào việc khảo sát những gì đang diễn ra trong đời sống đạo tại các giáo xứ trong Giáo phận, một cách chung chung, chúng ta có thể cho rằng đời sống đức tin của đa số các tín hữu trong Giáo phận vẫn rất tốt. Vì thế, các giáo xứ chỉ cần làm sao giữ nguyên tình trạng hiện thời là đủ, không cần canh tân hay tái truyền giáo làm gì!

Người lạc quan thì nhấn mạnh đến các hoạt động mục vụ nở rộ, việc xây cất các cơ sở thờ tự, việc rất nhiều người Công giáo tích cực quyên góp vật chất để giúp kẻ nghèo.

Nhưng người có cái nhìn bi quan thì lưu ý đến những khía cạnh tiêu cực trong đời sống của người tín hữu như việc thực hành đức tin hời hợt bề ngoài, hội hè đình đám mà thiếu chiều sâu nội tâm, cũng có cả những hình thức tham gia cách này hay cách khác vào những việc mang tính chất mê tín dị đoan và không thực hành giới răn yêu thương…

Dù đứng ở phương diện nào thì lời mời gọi của Tin Mừng cũng vẫn luôn vang vọng. Chúa Giêsu quan tâm đến con chiên lạc, đến người tội lỗi. Ngài quả quyết: “Ai có một trăm con chiên mà mất một con, lại không để chín mươi chín con ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” Và Ngài kết luận “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (x. Lc 15, 4-7).

Thánh Phaolô ví Hội Thánh như một thân thể và vì thế: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12,26). Với tư cách là người chủ chăn, Ngài lại càng lo lắng hơn nữa cho sự an nguy của các tín hữu: “Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2 Cr 11,29).

Thực tế cho thấy mọi tầng lớp tín hữu đang phải đương đầu với nhiều khó khăn mới phát xuất từ những hiện tượng kinh tế - xã hội - văn hóa trước đây chưa hề có, hoặc có nhưng chưa rõ nét. Tiến độ của việc công nghiệp hóa, đô thị hóa trên địa bàn GPHP, đặc biệt là các đô thị càng lúc càng diễn ra nhanh hơn. Các hoạt động mục vụ tại các giáo xứ đã phải thay đổi để thích nghi với nhịp sống công nghiệp và văn hoá đô thị, từ giờ lễ cho đến cách cử hành thánh lễ, từ giờ dạy giáo lý cho đến cách thức dạy giáo lý, từ giờ giấc cho đến cách sinh hoạt của các hội đoàn đạo đức.

Trong công tác mục vụ tại các giáo xứ, các mục tử đang phải đối diện với khó khăn và thách thức như: Làm thế nào để giúp cho đời sống của các thành phần dân Chúa thấm nhuần hơn nữa Lời Chúa và các chân lý đức tin? Làm thế nào để mọi tín hữu hiểu biết giáo lý cách đầy đủ và chính xác và lành mạnh hơn? Làm thế nào để các lớp giáo lý không chỉ truyền thụ kiến thức, nhưng còn giúp người học tiếp xúc gần gũi hơn với Thiên Chúa? Làm thế nào để các hội đoàn và các sinh hoạt đạo đức khác không chỉ dừng lại ở các hoạt động lễ hội, phong trào có tính hình thức bề ngoài, nhưng là môi trường đạo đức tốt lành, giúp những người tham gia có “sự thăng tiến về đời sống đức tin”? Làm sao cho tín hữu thể hiện đức tin bằng một lối sống công bằng và bác ái hơn, nói không với làm ăn gian dối, nói không với bất công xã hội? Làm sao để giới trẻ “sống” đạo cách tính cực và năng động, chứ không chỉ thuần tuý “giữ” đạo vì sợ tội hay vì luật giữa những trào lưu hầu như không thể cưỡng nổi như chủ nghĩa tiêu thụ hay chủ trương tự do tính dục? Làm thế nào để đời sống gia đình được bền vững trong khi việc ly hôn đã trở thành một giải pháp phổ biến đến mức bình thường cho những xung đột vợ chồng? Có những cách thức nào để giúp mọi tín hữu ý thức trách nhiệm tham gia tích cực vào công việc truyền giáo và tái truyền giáo?

Trước những vấn nạn được đặt ra, chủ đề của Thư mục vụ năm 2023 của HĐGMVN “CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG” có thể là một gợi ý cho một ý hướng mục vụ tái truyền giáo của GPHP. Lộ trình này có thể gồm ba bước và triển khai trong một khoảng thời gian (tam niên, ngũ niên hay thập niên) với những việc làm cụ thể qua các bước: bước I, củng cố sự hiệp thông – bước II, gia tăng đức ái – bước III, thi hành sứ vụ.


*Củng cố sự hiệp thông. Củng cố sự hiệp thông bằng việc thăng tiến chính hàng giáo sỹ và tu sỹ; thúc đẩy việc dạy và học giáo lý; chú trọng việc cử hành phụng vụ và khuyến khích tham dự các cử hành phụng vụ, nhất là đưa ra những sáng kiến và hoạt động mục vụ phục hồi đức tin và phục hưng lòng yêu mến Thánh Thể, bí tích của sự hiệp thông; khuyến khích, thúc đẩy và gia tăng các hình thức cầu nguyện chung trong gia đình và cộng đoàn.

*Gia tăng đức ái. Gia tăng đức ái bằng việc xây dựng và củng cố tinh thần đạo đức, đưa ra nhiều sáng kiến mục vụ để qua những hoạt động mục vụ này, quy tụ và khơi lên tinh thần liên đới giữa các hội đoàn trong giáo xứ; vun đắp tình liên đới giữa các giáo xứ trong giáo hạt; khuyến khích gia tăng các hoạt động tông đồ và các hoạt động bác ái.

*Thi hành sứ vụ. Khuyến khích mọi thành phần dân Chúa mở ra với những vấn đề thực tế của cuộc sống, dấn thân hơn nữa vào các hoạt động mang tính xã hội và cộng đồng để qua đó chiếu toả niềm vui Tin Mừng (tái truyền giáo).


1. Củng cố sự hiệp thông

Để công việc tái truyền giáo đem lại hiệu quả và có tính bền vững rất cần củng cố sự hiệp thông. Và để củng cố sự hiệp thông trong sứ mạng tái truyền giáo, thiết nghĩ bước đầu tiên và quan trọng là đổi mới tư tưởng (ideology); bước thứ hai, đổi mới tinh thần các thừa tác viên (ministers, leaders); và bước cuối cùng, đổi mới “chiến lược” mục vụ (pastoral stratery).


a, Đổi mới hàng giáo sĩ và cổ võ ơn gọi

Tân Phúc Âm hoá hay tái truyền giáo trong Giáo phận thực chất là công việc “làm mới” đời sống đức tin, canh tân các thực hành đức tin giúp cho Giáo phận trở thành một cộng đoàn đức tin sống động hơn, mạnh mẽ hơn và nhờ đó tạo một động lực truyền giáo mới. Để thao thức tái truyền giáo trong GPHP của ĐGM Giáo phận và của hàng giáo sỹ trở nên hiện thực, thì thiết tưởng, cần một sự canh tân sâu xa và có hệ thống.

*Bước thứ nhất: Đổi mới tư tưởng (tinh thần, nhận thức, ý hướng và tư duy).

Nhìn vào các sinh hoạt đạo đức, mục vụ trong GPHP, chúng ta có thể thấy mọi sự diễn ra vẫn bình thường. Trong dịp lễ Giáng sinh, trong Mùa Chay tại các nhà thờ các hình thức ngắm nguyện được tổ chức sầm uất và rộn rã. Tuần Thánh và lễ Phục Sinh mọi nơi tổ chức rất long trọng và hoành tráng...

Về nhân sự, con số linh mục đoàn của GPHP hiện nay đã lên đến gần 126. Cùng chia sẻ công tác mục vụ với hàng trăm linh mục trong Giáo phận, còn có sự cộng tác của các linh mục đến từ các dòng tu. Nếu chia bình quân số giáo dân trên mỗi vị, thì mỗi linh mục phụ trách khoảng 1000 tín hữu. Bên cạnh đó, số các tu sĩ, dòng tu, hiệp hội và tu hội cũng rất dồi dào và phong phú…

Nếu chỉ nhìn thoáng qua như vậy, mọi người sẽ dễ dàng đi đến nhận định rằng mọi sự đang hết sức tốt đẹp, không cần phải thay đổi. Có thể có ý kiến cho rằng các thế hệ tiên tổ đã có đạo hàng trăm năm rồi, không lẽ bây giờ mới bàn đến truyền giáo và tái truyền giáo?

Trong bầu khí sống đạo của GPHP như hiện nay có những khởi sắc, năng động và sầm uất như thế, nhưng ĐGM Giáo phận vẫn thao thức và tha thiết mời gọi mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận, nhất là quý cha, những người ở tuyến đầu trong Giáo phận đẩy mạnh việc tái truyền giáo. Bởi trong một dịp chia sẻ mục vụ với các linh mục trong Giáo phận, ngài cho rằng khi mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận bằng lòng với thực tại như đang diễn ra, có thể sẽ rơi vào nguy cơ đánh mất ơn Chúa Thánh Thần.

ĐGM Giáo phận tha thiết mời gọi mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận tái truyền giáo là làm cho đời sống đức tin trong các cộng đoàn giáo xứ tươi mới hơn, trưởng thành hơn, năng động hơn, sâu sắc hơn và thấm đẫm Lời Chúa hơn.

Bước đầu tiên của ý hướng tái truyền giáo được đặt ra, thiết tưởng là đổi mới tư tưởng. Người xưa thường nói “tư tưởng không thông thì vác bình tông cũng nặng”. Đối tượng đầu tiên cần được đổi mới tư tưởng đó chính là các “nhà truyền giáo” (formation de formatuer), tức hàng giáo sỹ trong Giáo phận. Hay nói cách khác “tái truyền giáo” cho chính các “nhà truyền giáo” là cần thiết và ưu tiên hàng đầu. Để công việc thể tái truyền giáo trong Giáo phận đem lại hiệu quả thì trước hết, cần có các “nhà truyền giáo” có tinh thần dấn thân, có lòng đam mê, nhiệt thành và tâm huyết. Bởi trước khi nói đến truyền giáo thì phải có những “con người truyền giáo” có “lửa truyền giáo”, có “hồn nhiệt thành tông đồ” vv...

Đổi mới tư tưởng (tinh thần, ý hướng, tư duy) nơi các linh mục là khơi lên niềm xác tín sứ vụ của các ngài. Sứ vụ linh mục chính là sự chia sẻ sứ vụ của Chúa Kitô, để qua đó các ngài thi hành sứ vụ của mình cách dấn thân hơn, nhiệt thành hơn. Sứ vụ ấy là gì? Là rao giảng, là loan báo Lời Chúa; là cử hành các bí tích thánh hoá dân Chúa, nhất là cử hành Thánh Thể; là chăm lo cho dân Chúa với tình yêu và sự phục vụ của Chúa (chăm lo cho dân Chúa chứ không phải cho chính Chúa. Bởi Chúa không cần ai phải lo cho Ngài):

Về việc rao giảng Lời Chúa. Công đồng Vatican II, trong Hiến Chế Giáo Hội (LG 4) dạy rằng: “Linh mục là thừa tác viên của Lời Chúa. Các linh mục, vì là cộng sự viên của các giám mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người Phúc Âm của Thiên Chúa… Các linh mục mắc nợ với mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm mà các ngài đã nhận được nơi Chúa.”[12]  Như thế, khi được tuyển chọn và được Chúa Kitô sai đi, người mục tử có sứ mạng rao giảng Lời Chúa, tuyệt đối trung thành và bén rễ sâu trong Kinh Thánh và Thánh Truyền. Qua bài giảng, cha giảng thuyết giải thích Lời Chúa, áp dụng Lời Chúa vào đời sống các tín hữu và giúp họ sống Lời của Ngài.

Về nhiệm vụ thánh hóa. Công đồng Vatican II, trong Hiến Chế  Giáo Hội (LG 28) nhấn mạnh đến trung tâm của tác vụ thánh hóa là cử hành bí tích Thánh Thể: Các linh mục “thực thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo nhất là trong Thánh Lễ hoặc cộng đồng tạ ơn, trong đó, các ngài thay thế Chúa Kitô, công bố mầu nhiệm của Chúa… hiện tại hóa và áp dụng hy lễ duy nhất của Tân Ước.[13]

Về tác vụ quản trị, chăm sóc mục vụ. Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục (Presbyterorum Ordinis) dạy: “Noi gương Chúa Chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên, linh mục sống tinh thần dâng hiến vì phần rỗi các linh hồn. Các ngài mang lại an ủi và củng cố niềm hy vọng cho các tín hữu của mình với đức tin mạnh mẽ, chu toàn bổn phận chăn dắt các linh hồn, … mưu tìm lợi ích cho nhiều người với những sáng kiến mục vụ trong vâng phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.[14] 

Và vì tác vụ linh mục là tác vụ của chính Hội Thánh, nên tác vụ đó chỉ có thể được chu toàn trong sự hiệp thông phẩm trật của Hội Thánh. Nên các linh mục hợp nhất trong đức tin của Hội Thánh, hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và ĐGM Giáo phận. Là người của Thiên Chúa và Hội Thánh, các linh mục cư xử với giáo dân đầy nhân bản, phán đoán quân bình, xử sự đúng mực, chân thành với mọi người, đặc biệt luôn mang nhân đức hiền lành và khiêm nhường của Chúa Kitô (x. Mt 11,29).

Đổi mới tinh thần ở đây không phải là sáng tạo ra một cái gì mới cho bằng là một sự trở lại và trung thành với Đức Kito, với sứ mệnh cốt yếu của mình được lãnh nhận từ nơi Đấng Sáng Lập Hội Thánh, là không còn khép kín, quy ngã nhưng mở rộng cửa và ra khỏi chính mình, và tìm lại được “niềm vui Tin Mừng” theo cách nói của Đức Thánh Cha Phanxico.

Đổi mới tinh thần ở đây chính là trở về với tinh thần của Hội Thánh, là làm mới lại tinh thần dấn thân, đam mê, nhiệt thành và tâm huyết trong công tác mục vụ, nói theo ngôn ngữ của Đức Thánh Cha Phanxico là “Hoán cải mục vụ” (Conversion Pastorale).

Và đổi mới tinh thần ở đây cũng có nghĩa là không chỉgiới hạn hoạt động mục vụ vào các việc dạy giáo lý hay ban bí tích ở trong khuôn khổ nhà thờ. Bởi lẽ, ngày nay có biết bao nhiêu động lực đang càng ngày càng lôi kéo các tín hữu ra xa nhà thờ!

Nếu việc mục vụ chăm sóc các linh hồn “cura animarum” của các linh mục các thế hệ cao niên ở những thập niên khó khăn trước đây phải vất vả tìm cách hộ giáo, đối mặt với sự o ép của xã hội, để đáp ứng nhu cầu mục vụ bí tích và chữa lành những tổn thương mất mát… thì công tác mục vụ chăm sóc các linh hồn của các thế hệ linh mục hôm nay là “cố gắng làm cho chúng có định hướng truyền giáo hơn, làm cho hoạt động mục vụ thông thường ở mọi cấp độ mang tính bao gồm và mở rộng hơn, khơi dậy, khơi dậy nơi những người làm mục vụ một ước muốn không ngừng ra đi và nhờ đó kích thích một đáp ứng tích cực từ tất cả những người được Đức Kito mời gọi đi vào tình bạn với Ngài.” (EG 27)

Công tác mục vụ chăm sóc các linh hồn hôm nay, theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxico, cần phải “chuyển từ một cái nhìn quan liêu giấy tờ, tĩnh và hành chính về mục vụ sang một viễn cảnh truyền giáo, trong đó mục vụ là luôn trong tư thế loan báo Tin Mừng”. (EG 25)

Và công tác mục vụ chăm sóc các linh hồn hôm nay cũng cần phải “chuyển đổi từ một nền mục vụ thuần tuý bảo toàn sang một mục vụ dứt khoát mang tính truyền giáo.” (EG 15)

 Tóm lại, đổi mới tư tưởng, tinh thần, nhận thức, ý hướng và tư duy mục vụ có nghĩa là thay đổi từ địa bàn mục vụ thuần tuý bảo tồn sang tư thế cần phải phát triển, từ tâm thế chỉ lo kinh kệ, lễ lạy sang tâm thế ưu tiên phát triển các hoạt động mục vụ truyền giáo.


*Bước thứ hai: Canh tân nhân sự và các thừa tác viên (formation de formatuer)

Các thế hệ Kito hữu hôm nay trong Giáo phận không thể không tạ ơn Chúa vì nhìn lại lịch sử của GPHP những thập niên khó khăn, các thế hệ các linh mục, tu sĩ, các ban hành giáo và giáo dân tốt lành, can đảm, khôn ngoan, quảng đại, trung thành giữ đạo đã không mệt mỏi dấn thân tông đồ và phục vụ cho phần rỗi của anh chị em mình.

Tuy nhiên, khi nói thế, không có nghĩa là chúng ta an tâm tự tại với thực tại để có thể trở nên bằng lòng và dễ sa vào “cạm bẫy của hoạt động thiêng liêng và mục vụ bề ngoài” có thể “bị cướp mất Tin Mừng” (EG 97) lúc nào không hay, theo cách nói của Đức Thánh Cha Phanxico trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng.

Như thế, để có một tinh thần tái truyền giáo mới thì Giáo phận cần có những nhà truyền giáo mới. Các nhà truyền giáo là chính các linh mục, tu sỹ, các ban hành giáo, và những người tham gia công tác tông đồ… Làm thế nào để những nhà truyền giáo này có tinh thần mới? Thiết tưởng có hai cách: một là, đào tạo và cung cấp thêm những nhân sự mới, và hai là, làm mới tinh thần những nhân sự cũ. Mục đích của cả hai cách đều dẫn đến sự mới mẻ. Không thể có tinh thần tái truyền giáo mới, nếu như không có những nhà truyền giáo có tinh thần mới hay nhà truyền giáo được đổi mới theo tinh thần của Huấn quyền Hội Thánh.


*Canh tân phương pháp: Đổi mới “chiến lược” mục vụ (pastoral stratergy)

Trong một hoàn cảnh mới, có nhiều đòi hỏi và thách đố hơn, cần có “chiến lược” truyền giáo mới; muốn có “chiến lược” truyền giáo mới, cần có những nhà truyền giáo có tinh thần “mới”; ngược lại, “chiến lược” mới cũng đòi hỏi những con người có tinh thần “mới”. Không thể có “chiến lược” mới, nếu không có những con người có tinh thần “mới”; bởi “chiến lược” mới cần những người có tinh thần mới để có thể thực hiện. Bối cảnh mới nảy sinh những thách thức mới, những đòi hỏi mới. Vì thế, các nhà truyền giáo cần có tư duy mới, bởi không thể tái truyền giáo trong hoàn cảnh mới theo phương cách và tư duy xưa cũ. Một tổ chức có tư tưởng “mới” thông suốt, có nhân sự “mới” nhiệt thành và tâm huyết, có “chiến lược” mới (phù hợp), thì những dự án đưa ra để thực hiện sẽ rất khả thi.

Bên cạnh đó, để các hoạt động mục vụ, tái truyền giáo thực sự hữu hiệu, thì thiết tưởng các Ban Mục vụ trong Giáo phận cần có chương trình phối hợp, liên đới và làm việc chung. Các Ban cơ cấu, tôn chỉ, mục đích và phương hướng rõ ràng. Hàng năm nên có các chương trình nghị sự, tạm gọi là “Hội nghị mục vụ” vào đầu năm mục vụ để các Ban trình lên Bề trên dự án mục vụ (pastoral project) trong một năm, một nhiệm kỳ. Các Ban tổ chức hội nghị cuối năm để báo cáo tổng kết, đánh giá hoạt động. Nếu cần thiết, các Ban có thể tổ chức hội nghị sơ kết bán niên để lượng giá và điều chỉnh cho phù hợp.

Liên quan đến việc đổi mới chiến lược mục vụ dài hạn là việc quan tâm cổ võ ơn gọi và chăm lo đào tạo các nhà truyền giáo tương lai “như lòng Chúa mong ước”[15].  Đây là một phần quan trọng của việc tái truyền giáo trong GPHP. Nếu tương lai của gia đình là con cái thì tương lai của Giáo phận là các chủng sinh và ứng sinh. Nhìn vào hàng ngũ ứng sinh và chủng sinh có thể tiên liệu về tương lai của một Giáo phận.

Cũng như các Giáo phận khác ở miền Bắc, khoảng thời gian từ những thập niên 90 của thế kỷ trước, con số ứng sinh và chủng sinh của GPHP rất dồi dào, phong phú và được đánh giá cao. Tuy nhiên, từ sau năm 2010, tình trạng ơn gọi tu trì trong Giáo phận giảm sút nhanh chóng. Cho dù, tình trạng ơn gọi tu trì giảm sút là mẫu số chung trong cả Hội Thánh. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng ơn gọi tại GPHP giảm sút quá nhanh. Chúng ta có thể nại đến những lý do khách quan do hoàn cảnh và thời cuộc, nhưng không thể phủ nhận lý do chủ quan. Bởi cũng trong bối cảnh không có nhiều khác biệt về mọi phương diện so với các giáo phận miền Bắc, nhưng tình trạng ơn gọi tại GPHP rất đáng suy nghĩ. Nên chăng, Giáo phận nên dành sự quan tâm, đầu tư hơn nữa về nhân sự và tài chính cho chiến lược này. Vì thế, thiết nghĩ, Giáo phận cần có một “Ban Ơn gọi” xuyên suốt từ cấp Giáo phận cho đến giáo hạt. Ban sẽ có chương trình hoạt động cổ võ ơn gọi, chú trọng đến nguồn ơn gọi trong chính Giáo phận nhà. Để nâng đỡ ơn gọi, Giáo phận nên thành lập quỹ yểm trợ ơn gọi cho những trường hợp khó khăn mà sự nuôi dưỡng những ơn gọi ấy vượt quá khả năng của gia đình và cha xứ/cha đỡ đầu.

Ban Ơn gọi nên tận dụng các phương tiện truyền thông hiện nay của Giáo phận như website và facebook để cổ võ ơn gọi; mời gọi sự cộng tác của các dòng tu cùng với những người có trách nhiệm khác, kể cả giáo dân cộng tác vào chương trình này; thiết lập văn phòng, thông tin về cách thức và điều kiện để ghi danh tìm hiểu về ơn gọi; tư vấn và giải đáp thắc mắc qua email hay điện thoại trực tiếp gặp người có trách nhiệm; đưa ra những cách thức đóng góp tiền bạc và vật chất hỗ trợ ơn gọi tu trì.

Nhân sự và môi trường nuôi dưỡng, đào tạo ơn gọi là một yếu tố vô cùng quan trọng. Bởi vì những yếu tố này định hình nhân cách các linh mục, những nhà lãnh đạo tinh thần, những nhà truyền giáo tương lai. Vì thế, công tác này rất cần điều kiện phù hợp với những nhà đào tạo có kinh nghiệm và những phẩm chất thích hợp cho sứ vụ quan trọng này. Ngoài việc đào tạo ý hướng ngay lành trong việc theo đuổi ơn gọi, thì đào tạo nhân bản, lương tâm, đời sống cầu nguyện, sự quân bình, thật thà, ngay thẳng, trưởng thành về tình cảm, tương quan trong đời sống… để các tu sinh phát triển con người tổng thể (tâm – thân – trí - thần) là điều hết sức cần thiết và cần được quan tâm ngay từ ban đầu.


b, Thúc đẩy việc dạy và học giáo lý và học hỏi Lời Chúa

Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 48, Đức Thánh Cha Phanxico viết: “Huấn giáo là một sự công bố Lời Chúa và luôn luôn tập trung vào Lời ấy, nhưng nó cũng đòi hỏi một môi trường và một cách trình bày hấp dẫn, việc sử dụng các biểu tượng giàu ý nghĩa, sự tháp nhập vào một tiến trình tăng trưởng rộng hơn và sự tích hợp mọi chiều kích của con người trong một lộ trình nghe và trả lời của cộng đoàn”.

Tiếp theo, số 136 của Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng cũng nhấn mạnh đến việc phát động một chương trình đem Lời Chúa vào việc thực hành sống đạo cho dân Chúa: “Thiên Chúa tìm cách đến với người khác” và “bày tỏ quyền năng của Ngài qua ngôn ngữ nhân loại”.

Và trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini có viết: “Kito giáo là ‘đạo thờ Lời Chúa’, hoàn toàn không phải thờ ‘thứ lời viết ra và câm lặng, nhưng thờ Ngôi Lời đã nhập thể và đang sống’. Bởi vậy, Kinh Thánh phải được công bố, được lắng nghe, được đọc, được đón nhận và được sống như Lời Thiên Chúa, theo đúng Truyền Thống các Tông Đồ, Truyền Thống mà Kinh Thánh không thể bị tách khỏi[16].

Các chương trình giáo lý hiện đang được áp dụng tại các giáo xứ được coi là đã “đáp ứng” được yêu cầu huấn giáo cho giáo dân trong hai giai đoạn căn bản của cuộc sống, từ thiếu nhi đến thiếu niên và giai đoạn chuẩn bị hôn nhân. Tuy nhiên, đứng trước hiện tượng có một số giáo dân bị chiêu dụ đi theo những nhóm, hội có chủ trương nghịch với Giáo huấn của Hội Thánh Công giáo về tín lý và luân lý, việc quan tâm trình bày giáo lý cho cộng đoàn là quan trong và cấp thiết.

Sau giai đoạn học hỏi chương trình giáo lý để lãnh nhận các bí tích khai tâm, cần thêm những chương trình huấn giáo về Kinh Thánh hay chương trình giáo lý Tin Mừng để đem Lời Chúa vào hoàn cảnh đặc thù của đời sống; cần phát động một chương trình đem Lời Chúa vào việc thực hành sống đạo cho mọi cộng đoàn, hội đoàn, gia đình và cá nhân…

Về việc đọc Kinh Thánh, rất cần một sự tìm hiểu và đề ra cách thức phù hợp để giúp tín hữu tạo thói quen tìm hiểu Lời Chúa như một hình thức sống đạo theo các giá trị Tin Mừng, nhờ vậy làm phong phú thêm đời sống đạo của các gia đình.


c, Chú trọng vẻ đẹp của việc cử hành phụng vụ

Số 43 của Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Phanxico khuyến dụ: “Hân hoan loan báo Tin Mừng trở thành vẻ đẹp của phụng vụ, như một phần mỗi quan tâm hằng ngày của chúng ta trong việc làm lan toả lòng nhân hậu. Hội Thánh vừa giảng Tin Mừng vừa được nghe giảng Tin Mừng qua vẻ đẹp của phụng vụ, vì phụng vụ vừa là cử hành công việc rao giảng Tin Mừng, vừa là nguồn mạch canh tân hành vi trao hiến của Hội Thánh.”

Các tín hữu giáo dân cần được nâng cao nhận thức và hiểu biết về Phụng vụ để giúp họ yêu mến và cảm nhận ơn ích thiêng liêng của Thánh lễ; cũng cần có những hướng dẫn và giải pháp mục vụ thích hợp để khuyến khích việc tham dự Thánh lễ của các tín hữu, đặc biệt là giới trẻ.

Thánh lễ là nghi thức thờ phượng cao nhất của phụng vụ Kito giáo. Lợi ích thiêng liêng của cộng đoàn là lý do ưu tiên nhất của các cử hành phụng vụ. Vì thế, nên cân nhắc việc cử hành các thánh lễ riêng theo nhu cầu cá nhân hay hội, nhóm có điều kiện và ảnh hưởng như một dịp để tôn vinh, đề cao cá nhân hay hội, nhóm đó.

Bên cạnh đó, trong phụng vụ, các hình thức bên ngoài là để diễn tả nội dung đức tin tránh một nguy cơ đang có thật là việc quá chú trọng đến hình thức bên ngoài. Việc bận tâm đến hình thức hoành tráng, tiệc tùng, khách mời… có thể làm cho thánh lễ trở thành một cuộc biểu dương hơn là một cử hành thờ phượng. Những hình thức bên ngoài chỉ có giá trị, với điều kiện nó đi với nội dung để bày tỏ tâm tình tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa, để đưa cộng đoàn đến với Chúa, đến với tâm tình đạo đức. Ngược lại, những nghi lễ thánh thiêng sẽ trở nên như những dịp giao lưu, quảng cáo, hay lễ hội (profane). Tính trang trọng và thánh thiêng của các cử hành phụng vụ thánh rất cần được tôn kính.

Các tín hữu quan tâm nhiều đến bài giảng của vị chủ tế hơn là các phần khác trong Thánh lễ. Vì thế họ cũng mong đợi các cha cung cấp cho họ những bài diễn giảng Lời Chúa ý nghĩa và thích hợp. Tuy nhiên, giáo dân cũng cần được huấn luyện phụng vụ để thấy rõ ý nghĩa và tính toàn thể của phụng vụ Thánh lễ. Mỗi cử hành Phụng vụ là một lần Hội Thánh biểu lộ khuôn mặt hoạt động của Thiên Chúa và làm cho ý nghĩa của Tin Mừng trở nên hữu hình, trong lời nói và cử chỉ là một phần quan trọng. Cần đề cao tầm quan trọng, ý nghĩa và sự trang trọng là bản chất vốn có của các cử hành phụng vụ và bí tích.

Liên quan đến cử hành phụng vụ thánh, Ban Thánh nhạc Giáo phận nên chăng chọn lựa một bộ lễ chung cho toàn giáo phận để khi có những dịp cử hành phụng vụ mang tính giáo phận, mọi người đều có thể tham gia dễ dàng và sinh động.

Ước mong các buổi cử hành phụng vụ làm cho các tín hữu vừa cảm nghiệm được sự thánh thiêng của cử hành phụng vụ, vừa cảm nhận được sự thân thương gần gũi của mọi người tham dự như một cộng đoàn hiếu khách, trong đó tất cả mọi người tìm được nhà của họ, được những kinh nghiệm hiệp thông cụ thể, với sức mạnh nồng nhiệt của tình yêu - “Hãy xem họ yêu thương nhau dường nào” (Tertuliano) - tình yêu thu hút được cái nhìn ngưỡng mộ của con người thời nay. Cần làm nổi bật vẻ đẹp của đức tin rạng ngời trong phụng vụ thánh, trong các cử hành bí tích, đặc biệt nhất là trong Thánh lễ Chúa nhật.

Cũng liên quan đến Phụng vụ và các Bí tích, hiện nay trong Giáo phận chúng ta dường như đang có những bối rối, nhầm lẫn giữa “lệ” và “luật” về những “án vạ” mục vụ liên quan đến vấn đề hôn phối. Không ít trường hợp có thể giải quyết, thành sự hoá hoặc tháo gỡ để họ có thể được lãnh nhận Bí tích Hoà giải và Thánh Thể, theo định hướng “các cửa bí tích cũng không được đóng lại vì bất cứ lý do gì” theo Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 47 của Đức Thánh Cha Phanxico.


d, Khuyến khích việc cầu nguyện trong gia đình

Về môi trường sống trong gia đình, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II viết trong Thông điệp “Ut Unum Sin” như sau: “Vì gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học cách sống với người khác bất chấp các khác biệt giữa chúng ta, và học cách thuộc về lẫn nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ truyền thụ đức tin cho con cái[17].

Về lòng đạo đức bình dân, trong số 69 của Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Phanxico viết: “Chúng ta có thể thấy những khuyết tật cần phải được chữa lành bởi Tin Mừng: thói trọng nam khinh nữ, tật nghiện rượu, bạo lực gia đình, ít đi lễ, các khái niệm về số phận hay mê tín dị đoan làm người ta chạy theo ma thuật phù phép, vv… Chính lòng đạo đức bình dân có thể là một điểm xuất phát để chữa lành và thoát khỏi những khuyết tật này”.

Như thế, các hình thức đạo đức bình dân vừa mang tính cộng đoàn vừa mang tính cá nhân, vừa có giá trị nhân bản, giáo dục thiêng liêng, vừa chuyển tải nội dung giáo lý, nuôi dưỡng đời sống đạo của các tín hữu. Bởi với tâm thức bình dân, người tín hữu rất cần những dấu hiệu, cử chỉ, biểu tượng diễn tả bên ngoài.

Bên cạnh đó là truyền thống đọc kinh gia đình. Việc đọc kinh trong gia đình không chỉ là hành vi cầu nguyện nhưng còn là sự đoàn tụ và nối kết mọi thành viên. Trong bối cảnh hiện nay, hình thức cầu nguyện gia đình đã bị mai một rất nhiều. Vì thế, rất cần nghiên cứu và cổ võ những hình thức cầu nguyện chung trong gia đình cách phù hợp, đồng thời giúp các tín hữu hiểu biết ý nghĩa của việc cùng nhau đọc kinh cầu nguyện chung, giúp những người trẻ, cách riêng những chủ gia đình trẻ, ý thức hơn giá trị của các việc đạo đức cá nhân. Bên cạnh đó, cũng rất khuyến khích những sáng kiến và hình thức sống đạo phù hợp với những đối tượng khác nhau, bao gồm việc cầu nguyện nhóm, hội và cá nhân.


2. Gia tăng đức ái trong các cộng đoàn đức tin


a, Củng cố các giáo xứ

Đức Thánh Cha Phanxico, trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 28, rất đề cao vai trò của cộng đoàn giáo xứ. Đây chính là một “hạt nhân”, một điểm khởi phát cho mọi chương trình mục vụ của Hội Thánh: “Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo.

Việc củng cố các giáo xứ được hiểu trước hết là củng cố đời sống đức tin và tinh thần truyền giáo, thứ đến mới là việc củng cố và tái thiết cơ sở vật chất để phục vụ các hoạt động mục vụ.

Thứ nhất, Giáo phận chỉ mạnh khi có các giáo xứ mạnh mẽ, năng động và nhiệt thành trong các hoạt động tông đồ, truyền giáo.

Thứ đến, việc xây dựng nhà thờ, nhà mục vụ, nhà xứ… nếu nhu cầu cần thiết và hữu ích là điều đáng khích lệ, để phục vụ cộng đoàn phát triển đức tin. Tuy nhiên, việc xây dựng một công trình phục vụ cho cộng đồng cũng cần một sự tìm hiểu về nhu cầu thực sự, viễn tượng về sự quy hoạch và phát triển của địa bàn đó.

Một khía cạnh khác, các hạng mục công trình xây dựng nhằm đúng mục đích, đúng công năng sử dụng (vd: một giáo xứ chỉ có ít người mà lại xây dựng lớn quá mức cần thiết; nhà giáo lý cần có những tiêu chuẩn phù hợp cho các lớp giáo lý; nhà xứ dùng để cha xứ, cha phó và các thầy ở thì cần phù hợp và thuận tiện cho việc sử dụng; một ngôi đền khác với nhà thờ, công trình tượng đài chắc chắn không phải để trang trí cho khuôn viên v.v.). Bất cứ công trình nào cũng đều mang tính truyền giáo, quy tụ và cổ võ tình huynh đệ như trong gia đình Hội Thánh để mọi người tới đó như thấy được như trở về ngôi nhà của mình, nên công trình đó phải nhắm để phục vụ cho cộng đoàn, và công trình phải nhắm phát huy đặc tính, công năng sử dụng của nó.

Theo quy luật vận hành và phát triển đô thị, địa bàn dân cư ở lõi, trung tâm các thành phố, vì diện tích quá chật chội và đã ổn định, không còn quỹ đất và khả năng phát triển nữa. Các đô thị sẽ được mở rộng ra các khu mới, với những tiện ích hiện đại như: siêu thị, trường học, bệnh viện, ngân hàng, khu liên hợp vui chơi giải trí…. Xu hướng các gia đình trẻ có điều kiện kinh tế, lựa chọn rời bỏ khu trung tâm chật chội, chuyển tới khu đô thị mới sinh hoạt thuận lợi, dẫn đến sự chuyển dịch dân số, trong đó có các Kito hữu, làm cho số tín hữu ở các giáo xứ trung tâm thành phố sẽ già hoá và sẽ giảm dần. Cho nên, thay vì xây dựng các cơ sở thờ tự lớn trong khu trung tâm, Giáo phận có chiến lược mở rộng và đầu tư thiết lập những “giáo điểm” tại những khu đô thị mới, phù hợp với sự chuyển dịch dân số và phát triển của các đô thị.


b, Củng cố các Ban hành giáo, đoàn thể, giới

Ban hành giáo là một tổ chức đặc thù tại Việt Nam. Những tín hữu giáo dân này sống ba chức năng của Bí tích Thanh tẩy qua việc tham gia vào việc quản trị giáo xứ. Về tổ chức Ban hành giáo, Sắc Lệnh Tông đồ của Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Nơi các cộng đoàn Giáo hội, hoạt động của giáo dân thật cần thiết, đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các chủ chăn thường không thể đạt được kết quả trọn vẹn”.[18]

Như thế, văn kiện chính thức của Hội Thánh nhìn nhận Ban hành giáo là một tổ chức rất cần thiết và có một vai trò quan trọng. Nếu nói lịch sử GPHP tồn tại trong đau thương và vượt lên trong gian khó, thì cũng có thể nói quý vị Ban hành giáo là những người có công đầu trong lịch sử của Giáo phận. Nhiều vị, vì Giáo hội mà phải bỏ mạng trong lao tù. Những vị khác, cuộc sống gặp vô vàn gian khó. Xưa cũng như nay, họ là những người “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, phải chịu áp lực công việc và trách nhiệm trước cha xứ và dân xứ. Trong thời gian làm việc, họ vừa không lo kinh tế cho gia đình mà có khi phải bỏ kinh tế gia đình ra để lo việc chung.

Năm 1992, Đức cố Giám mục Giuse Nguyễn Tùng Cương đã phê chuẩn cuốn “Lề luật họ đạo”. Cuốn sách này được coi như là những quy chế, hướng dẫn cho các hoạt động của tổ chức này. Tuy nhiên, cuốn “Lề luật họ đạo” đã được biên soạn cho bối cảnh hết sức khó khăn cách đây hơn 30 năm, mà nay trong bối cảnh mới có nhiều điều cần điều chỉnh cho phù hợp. Ước mong Giáo phận sớm soạn thảo và phê chuẩn một “Quy chế Hội đồng Mục vụ Giáo xứ” đáp ứng những đòi hỏi của bối cảnh hôm nay.

Về các đoàn thể và các giới trong Giáo phận. Thực tế cho thấy, tại nhiều giáo xứ chưa tới 50% số tín hữu tham gia đoàn thể đạo đức. Vì thế, các mối liên hệ trong cộng đoàn giáo xứ kém phần chặt chẽ và tạo ra những tầng lớp cư dân tôn giáo “bồng bềnh” ở trong các giáo xứ. Rất cần một sự tìm hiểu nguyên nhân sâu xa các tín hữu ít tham gia các hội đoàn trong giáo xứ. Giáo phận có rất nhiều đoàn thể đạo đức, nên việc thiết lập thêm các Ban quy tụ các giới mang tính “hiệp hội công” trong Giáo phận là cần thiết, có tài liệu giúp các hội đoàn và các giới hoạt động và cầu nguyện theo tháng hay quý. Đồng thời, các mục tử cũng quan tâm hơn đến các hội đoàn, làm phong phú nội dung và hình thức để thu hút giới trẻ tham gia ngày càng năng động và có trách nhiệm. Trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, các Nghị phụ đã tuyên bố: 

… Nơi nào có giáo dân hoạt động thì hoạt động tông đồ nhất thiết phải được củng cố dưới hình thức tập thể và có tổ chức. Vì chỉ có việc liên kết chặt chẽ các nỗ lực mới mong đạt được đầy đủ mọi mục tiêu của hoạt động tông đồ ngày nay và bảo vệ hữu hiệu những kết quả của việc tông đồ đó. Hoạt động tông đồ tập thể rất quan trọng vì trong các cộng đồng Giáo Hội, cũng như trong các môi trường khác nhau, việc tông đồ thường đòi hỏi phải được chu toàn nhờ một hoạt động chung. Những Hội Đoàn được thành lập để hỗ trợ hoạt động tông đồ tập thể, sẽ nâng đỡ và huấn luyện các hội viên trong việc tông đồ, phối hợp và điều hành các hoạt động tông đồ, nhờ đó hy vọng có được những kết quả phong phú hơn là nếu từng người hoạt động riêng rẽ.[19]


c, Củng cố đời sống hôn nhân – gia đình

Để củng cố đời sống hôn nhân – gia đình, các bạn trẻ không phải chỉ khi bước vào đời sống hôn nhân mới cần quan tâm học hỏi. Các em cần được chuẩn bị xa ngay trong các cấp giáo lý căn bản. Ngay từ khi còn nhỏ, các bậc cha mẹ cần có định hướng giáo dục cho con cái trong đời sống hôn nhân qua và bằng việc quan tâm giáo dục con cái về đời sống đức tin.

Ngoài việc giáo dục con cái về đức tin và tri thức, cha mẹ Công giáo cần quan tâm giáo dục nhân bản Kito giáo cho con cái. Việc làm này được thực hiện trong bối cảnh gia đình, theo cách thức lưu truyền thói quen của truyền thống tốt lành và bắt đầu từ khi các em còn nhỏ tuổi. Thiết nghĩ, đây là một nội dung trong chương trình giáo dục từ giới thiếu nhi tới thanh thiếu niên, tạo cơ sở vững chắc trong hành trình cuộc sống của người Kito hữu.

Đứng trước xu hướng ly thân/ly hôn ngày càng gia tăng, các giáo xứ cần có những chương trình mục vụ giáo dục hữu hiệu để giúp đỡ, phòng ngừa và giảm bớt xu hướng này.

Về xu hướng một bộ phận giới trẻ và ngay cả gia đình, chấp nhận việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, rất cần nghiên cứu thêm nhóm giáo dân có xu hướng này để có thể tìm ra nguyên nhân và có giải pháp, hầu có thể giúp họ và cộng đồng bảo vệ hạnh phúc hôn nhân gia đình, đặc biệt trong công tác mục vụ gia đình, giới trẻ và giáo lý hôn nhân cũng như giáo dục giới tính.

Việc lựa chọn số con cái là một vấn đề phức tạp, và vấn đề phòng tránh thai, thực tế khá phổ biến, chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Vì thế việc truyền tải những Giáo huấn của Hội Thánh về vấn đề này cho người giáo dân là một đòi hỏi rất cấp bách để họ nhận thức đúng đắn và có quyết định tốt nhất.

Để các gia đình Công giáo tiếp tục duy trì vai trò bảo vệ và hướng dẫn đức tin cho giới trẻ, rất cần có những hoạt động ích lợi để cùng liên kết với gia đình và hỗ trợ cho các gia đình trong hoàn cảnh có nhiều biến chuyển về xã hội và con người dưới tác động của “thế tục hoá và duy lý hoá”.


d, Khuyến khích các hoạt động tông đồ và bác ái

Với Hội Thánh, việc bác ái không chỉ là một hoạt động trợ giúp xã hội nhưng đồng thời cũng là một hoạt động truyền giáo, vì bác ái thuộc về bản tính của Hội Thánh (Deus Caritas Est, 25a).

Bác ái phát xuất từ lòng nhân ái để tôn trọng và yêu thương con người, đặc biệt những người nghèo khổ cả tinh thần lẫn vật chất, một tình yêu vô vị lợi bắt nguồn từ Thiên Chúa. Khi nói đến làm việc bác ái người ta thường nghĩ ngay đến những trợ giúp về vật chất hơn là nghĩ đến vấn đề tinh thần. Tuy nhiên, Hội Thánh Công giáo lại đặt các công việc bác ái như là một trung tâm hoạt động truyền giáo. Chương V của Thông điệp Redemptoris Missio đã đưa ra một định nghĩa: “Bác ái là nguồn mạch và tiêu chuẩn của sự truyền giáo” (số 60).

Như thế, bác ái là hoạt động truyền giáo, vì Kito hữu là những người đang họa lại hình ảnh của Thiên Chúa trong xã hội hôm nay, khi thi hành bác ái cách chân thành, khi đến với những người nghèo khổ, những trẻ em đường phố, những người bất hạnh bị xã hội ruồng bỏ, và những người đang gặp khủng hoảng cả tinh thần lẫn vật chất bằng cả tình yêu của chúng ta, một tình yêu như Đức Kitô mục tử: biết chiên, tìm chiên và hiến thân vì chiên.

Chính vì thế, công việc bác ái là thể hiện tình yêu một cách cụ thể đối với tha nhân, là một khí cụ loan báo Tin Mừng một cách hết sức phù hợp với xã hội hôm nay. Đây chính là điểm khác nhau của công việc bác ái Kitô và không Kitô. Bác ái không Kitô luôn tìm kiếm cho mình hay là một sự trao đổi. Nhưng bác ái Kitô là cho đi, không giữ cho mình, cho đi vì một tình yêu nhưng không như Thiên Chúa đã ban nhưng không cho mình.

Bác ái Kitô giáo có định hướng đưa anh chị em đến gặp Chúa Kitô là nguồn hạnh phúc muôn đời và không ai lấy mất được. “Thiên Chúa cần chúng ta để làm cho người khác có thể cảm nghiệm được tình thương của Ngài.” (Michel Quoist)


3. Tái truyền giáo chính là một cuộc gặp gỡ để “lắng nghe” và “loan báo”.


Như đã xác định ngay từ đầu, đối tượng của việc tái truyền giáo là những anh chị em tín hữu, tuy đã được rửa tội, nhưng vì lý do khách quan, hay lý do chủ quan trong đời sống Hội Thánh, đã đẩy họ sống xa lìa đời sống của Hội Thánh, và lối sống của họ hiện không tham chiếu tín lý và luân lý Kitô giáo.


Tái truyền giáo là đến gặp gỡ những anh chị em này, để rồi sau khi lắng nghe họ, sẽ giúp họ tái khám phá đức tin, gặp lại Chúa, Đấng duy nhất, nguồn mạch ân sủng mang lại vui mừng và hy vọng và làm cho cuộc sống họ được an bình.


Qua “Sứ Điệp Tân Phúc Âm Hoá Cho Các Dân Tộc”, Đức Benedict XVI, năm 2012, đã giới thiệu một “khuôn mẫu” trong Tin mừng (x. Ga 4,5-42) cho việc tái truyền giáo, trong đó Ngài đã đến gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samaritano bên bờ giếng Giacob. Sau khi “lắng nghe”, đi vào chiều sâu của tâm hồn và cuộc sống chị, Chúa Giêsu đã “loan báo”, giúp chị nhận ra con người thật, tìm lại được sự thật về chính mình và được biến đổi.

Việc tái truyền giáo là một công việc của đức tin. Mà đức tin là một ân sủng đến từ Thiên Chúa: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,44).


Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 38 gợi nên một “phong cách” để các nhà truyền giáo quy chiếu đó là chính Đức Kito: “Chúng ta cần làm cho Hội Thánh luôn luôn ra khỏi chính mình, qui hướng việc truyền giáo của mình vào Đức Kito, và dấn thân cho người nghèo. Xin Chúa cứu chúng ta khỏi một Hội Thánh thế tục với những cạm bẫy của hoạt động thiêng liêng và mục vụ bề ngoài! Tính thế tục ngột ngạt này chỉ có thể được chữa lành bằng việc hít thở không khí trong lành của Chúa Thánh Thần, Đấng giản thoát chúng ta khỏi tính vị kỷ trong bộ áo đạo đức bề ngoài mà không có Thiên Chúa. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất Tin Mừng”.


Vì thế, mọi ý định truyền giáo hay tái truyền giáo, trước hết và trên hết đều không thể thực hiện chỉ bằng những hành động của con người, cho dù đó là những dự án, kế hoạch, chương trình được chuẩn bị chu đáo nhất và được tiến hành với những phương pháp và phương tiện đầy đủ nhất. Việc quan trọng và trước tiên là cầu nguyện, xin Chúa gửi Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn “nhà truyền giáo”, để có thể giúp khơi thắm lại đức tin nguội lạnh trong lòng các anh chị em đang sống xa cộng đoàn Hội Thánh. Việc làm tiếp theo là đi đến để gặp gỡ, để đối thoại theo gương Chúa Giêsu. Cuộc đối thoại bao gồm hai bước: “lắng nghe” và “loan báo”.


Bước thứ nhất là “lắng nghe” (listening). Ngành tư vấn cho thấy, “lắng nghe” là nghe với tất cả sự quan tâm, tập trung, ân cần và cảm thông để có thể thấu cảm tâm tư, tình cảm của người đang nói với mình, để có thể đi vào quan hệ nhân văn với họ, hiểu được những tâm tư, tình cảm của anh chị em đó diễn đạt. Lắng nghe không chỉ là nghe (hearing) những âm thanh của lời nói mà là nhận ra được những tâm tình anh chị em đó muốn nói. Vì thế, “lắng nghe” không chỉ là nghe được những lời người ta nói mà còn nghe được thứ ngôn ngữ không lời. Muốn “lắng nghe” được như vậy thì việc nghe phải trở thành sự hiện diện của toàn bộ con người trong cuộc đối thoại, chứ không phải chỉ có sự hiện diện của cái đầu, hay chỉ là sự hiện diện của thân xác, mà là sự hiện diện của toàn thể con người, của trí tuệ, của trái tim, của linh hồn, lắng nghe với cả con người với cả cuộc sống. Sự lắng nghe như thế là hoa trái của đức bác ái, của tình yêu thực sự. Khi “lắng nghe” như vậy, người “lắng nghe” nhận ra sự “mâu thuẫn” (confrontation) trong câu chuyện của người chia sẻ, không có sự thống nhất giữa lời người ta nói với thái độ của người ấy. “Lắng nghe” để khám phá ra sự “xung đột” trong tâm hồn họ, để rồi giúp họ nhận ra con người thật của mình, giúp họ tìm lại được sự thật về chính mình, giúp cho họ khám phá ra họ là ai.


Ứng dụng vào việc tái truyền giáo, việc lắng nghe là việc làm quan trọng và thiết yếu. “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” là kỹ năng đơn giản nhưng ít người làm chủ. Trong tinh thần hiệp hành và tái truyền giáo, nhà truyền giáo quan tâm lắng nghe tất cả mọi tiếng nói, tập quán, văn hoá, truyền thống tâm linh của những người “đứng bên lề”, và cả tiếng nói không xuôi thuận với Hội Thánh, mà xưa nay vì hiểu lầm hay không đồng quan điểm, có suy nghĩ khác, ngay cả phê phán Hội Thánh... Biết đâu sau những cuộc “lắng nghe” ấy, là một sự gặp gỡ, thấu hiểu,và đồng cảm, để qua đó họ nhận ra ánh sáng chân lý.

Người mục tử không những quan tâm gặp gỡ để “lắng nghe” những tín hữu giáo dân có trình độ văn hoá mà còn phải để ý “lắng nghe” những người dễ bị “lãng quên”. Đó là những nhóm người có tâm hồn “nhạy cảm” và “dễ tổn thương” về đức tin và luân lý như nhóm bổn đạo mới, nhóm trình độ giáo lý thấp, nhóm trình độ văn hoá thấp, và nhóm những người đang sống trong những hoàn cảnh “rối” hôn phối...


Bước thứ hai là “nói” (proclaiming). Sau khi “lắng nghe” là “nói”, có nghĩa là loan báo Tin Mừng. Một điều rất hiển nhiên như chân lý, đó là khi nói hay công bố thì thường người ta chỉ hiểu là nói bằng lời. Nhưng trong thực tế, theo nghiên cứu khoa học của giáo sư tâm lý thuộc trường đại học UCLA là Albert Mehrabian: 55% quá trình giao tiếp không liên quan đến việc sử dụng từ ngữ, mà liên quan đến ngôn ngữ cơ thể, vẻ mặt khi nói chuyện; 38% liên quan đến ngữ điệu, chẳng hạn như âm lượng, giọng nói, sự diễn cảm trong cách nói, và chỉ có 7% liên quan đến ngôn từ.[20]Như thế, khi nói thì không chỉ bằng lời mà bằng ánh mắt, bằng cách diễn tả trên khuôn mặt và những chuyển động của cơ thể, nói với cả con người. Chỉ có thể nói như thế khi điều mình nói xuất phát từ trong trái tim. Nếu những gì được “nói” chỉ thuần tuý là những thông tin, những kiến thức thì nó sẽ không lưu lại bao lâu. Còn những gì được nói từ trái tim sẽ đánh động người nghe và sẽ rất khó quên. Do đó, việc nói cho người khác về đức tin, về Chúa và về Tin Mừng thì không thể chỉ nói bằng lời (7%), cần có một thứ ngôn ngữ không lời, được hiểu là chứng tá đời sống, là sự đối thoại giữa trái tim với trái tim thì quan trọng hơn nhiều.


Như thế, mục vụ tái truyền giáo nhấn mạnh đến việc làm chứng bằng đời sống chứng nhân hơn là bằng việc rao giảng. Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 42 cung cấp một xác tín như sau: “Chúng ta cần nhớ rằng mọi lời giảng dạy tôn giáo rốt cuộc đều phải được phản chiếu nơi cách sống của người giảng dạy, chính cách sống này đánh thức sự ưng thuận của quả tim bằng sự gần gũi, yêu thương và chứng tá của nó”.

Ý thức như thế sẽ giúp “nhà truyền giáo” tránh được nguy cơ giáo điều và trịch thượng. Tái truyền giáo là một sự gặp gỡ trong đó có “lắng nghe”, có “công bố”. “Công bố” không chỉ bằng “lời” mà quan trọng là bằng “chứng tá đời sống”. Điều này được Đức Thánh Cha Phanxico củng cố bằng những lời sau đây: “Một nhà truyền giáo đích thực không bao giờ thôi là môn đệ, biết rằng có Đức Kito cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo”. (EG 266)


Nhà truyền giáo, trong cuộc gặp gỡ để “lắng nghe” và “loan báo” rất cần sự kiên nhẫn và tế nhị. Đó là điều mà Đức Giêsu đã làm với người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-26). Ngài đề cập đến khát vọng tình yêu đích thực của chị, để giải thoát chị khỏi những gì làm u tối cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin Mừng. Vì thế, các mục tử cần có cách ứng xử tích cực và tìm cách giúp đỡ với ba thái độ quan trọng sau đây:


Thái độ trước hết là nhìn nhận cách khách quan và thanh thản những “vấn đề” trong cuộc sống hiện tại của họ, nghĩa là không có những thiên kiến về cách sống mà những anh chị em này chọn lựa. Thông thường, họ không có ý chối bỏ các giá trị Kito giáo. Nhưng do những yếu tố khách quan hay chủ quan trong cuộc sống đưa đẩy.Thái độ tiếp theo là loại bỏ việc lên án tình trạng sống hiện tại không phù hợp với tín lý và luân Kitô giáo của họ, nhưng hãy khéo léo dẫn dắt giúp họ dần nhận ra chân lý. Và cuối cùng là thái độ đối thoại với các anh chị em này. Các mục tử chăn dắt linh hồn không bao giờ tỏ ra kỳ thị những anh chị em đang sống xa cộng đoàn Hội Thánh, nhưng bày tỏ tình yêu và sự cảm thông để họ được đánh động, nhận ra vẻ đẹp và cơ hội tiến đến việc tái hoà nhập cách trọn vẹn với cộng đoàn Hội Thánh[21].


Đức Phanxico, khi đề cập đến sứ mạng truyền giáo, đã viết những lời mạnh mẽ: “Một người truyền giáo nhiệt tình cảm nhận được niềm vui mình là một suối nước vọt ra để tưới mát người khác. Chỉ người nào cảm thấy hạnh phúc khi tìm lợi ích cho người khác, mong muốn hạnh phúc cho họ, người ấy mới có thể là người truyền giáo. Sự mở lòng này là một nguồn vui, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35). Chúng ta không sống tốt hơn được khi trốn tránh, náu ẩn, từ chối chia sẻ, ngừng trao ban và đóng kín mình trong những tiện nghi của mình. Một nếp sống như thế không khác gì một cuộc tự sát từ từ.” (EG 272)


KẾT LUẬN

Lệnh truyền của của Đấng Sáng Lập Hội Thánh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28,19). Lời mời gọi của Đức Benedicto XVI trong “Sứ Điệp Tân Phúc Âm Hoá Cho Các Dân Tộc”, ngày 06/01/2012: Tái truyền giáo “chủ yếu hướng tới những người, tuy đã được rửa tội, nhưng đang xa lìa Hội Thánh, và sống không hề tham chiếu tín lý và luân lý Kitô giáo ..., để giúp họ tái gặp gỡ Chúa, là Đấng duy nhất làm cho cuộc sống chúng ta được ý nghĩa sâu xa và an bình; để giúp tái khám phá đức tin, là nguồn mạch Ân sủng, mang lại vui mừng và hy vọng trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội.[22] Và lời khích lệ của Đấng Bản quyền Giáo phận “… Nếu ở trong GPHP, chúng ta cố gắng tái truyền giáo trong vòng 10 năm, thì những người khô khan nguội lạnh trở lại sinh hoạt với Giáo Hội, rồi con cái họ cũng được rửa tội, sinh hoạt với Giáo hội, thì GPHP sẽ là một Giáo phận rất mạnh mẽ.”


Như thế, truyền giáo và tái truyền giáo là mối bận tâm rất lớn của Đấng Cứu Thế, của Hội Thánh hoàn vũ và của Bề trên GPHP, Đức Giám mục Vinh Sơn. Tái truyền giáo là việc rất khó, có khi còn khó hơn cả việc truyền giáo cho các tân tòng. Mặc dầu khó, và dù có bị chống đối và bị ghét bỏ, nhưng những người được Chúa sai đi vẫn kiên trì thực hiện công việc tái truyền giáo để thay đổi những quan niệm về tôn giáo sai lầm, để giữ đạo và sống đạo sao cho đúng căn bản Lời Chúa và Giáo huấn của Hội Thánh. Thiết nghĩ việc tái truyền giáo trong GPHP cần có chương trình dài hạn và có hệ thống, được triển khai tới mọi thành phần dân Chúa.


Ưu tư về việc tái truyền giáo trong GPHP hẳn là ưu tiên hàng đầu trong danh sách những vấn đề ưu tiên của ĐGM Giáo phận. Và đây cũng hẳn là ưu tư của quý cha, trong vai trò và trách nhiệm là những cộng tác viên của ĐGM, phục vụ các cộng đoàn giáo xứ, những người trực tiếp thực thi công việc tái truyền giáo qua công tác mục vụ của các ngài. Công việc tái truyền giáo cũng rất cần sự hợp tác của các tu sĩ, các Ban hành giáo, chủng sinh, giáo lý viên và các thành viên hội đoàn tông đồ đạo đức…


Trên cơ sở những khảo sát, đánh giá, phân tích về những gì đang diễn ra trong thực tế đời sống đạo tại GPHP và dưới lăng kính của truyền thống Kito giáo, người viết mạnh dạn gợi lên một số ý kiến và đưa ra những đóng góp cho ý hướng tái truyền giáo trong GPHP đã được ĐGM nêu lên. Tuy nhiên, đây chỉ là những ý kiến có tính cá nhân và chủ quan, nên vấn đề này cần được nghiên cứu sâu xa và phân tích thấu đáo và đa diện hơn. Những ý tưởng này chỉ là một gợi ý khiêm tốn cho những việc làm lớn lao tiếp theo của cả Giáo phận cho công cuộc tái loan báo Tin Mừng của Đức Kito Phục sinh tại GPHP thân yêu của chúng ta.

 
Lm. Phaolo Vũ Đình Viết

Tháng 12/2024

TẢI FILE FDF TẠI ĐÂY

[1]

James D. Whitehead and Evelyn Eaton Whitehead , Method in Ministry: Theological Reflection and Christian Ministry, Rev. and updated (Kansas City: Sheed & Ward, 1995), 13

[2] Trích tài liệu “giới thiệu sơ lược lịch sử giáo phận Hải Phòng.” https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-phan-hai-phong-31380

[3] Theo số liệu thống kê của General Statistics of Vietnam, 2023 – nguồn ChatGPT

[4] Bộ giáo luật, điều 1086.1

[5] https://luatminhkhue.vn/ty-le-ly-hon-trong-xa-hoi-hien-nay-nguyen-nhan-dan-den-tinh-trang-ly-hon.aspx

[6] https://vietnam.unfpa.org/vi/news/kiem-soat-mat-can-bang-gioi-tinh-khi-sinh-do-lua-chon-gioi-tinh-dinh-kien-gioiva-vai

[7] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/mot-luong-dinh-ve-tai-truyen-giang-tin-mung-42609

[8] Từ điển Công giáo, mục từ: Tục hóa

[9]https://www.vatican.va/roman_curia/synod/documents/rc_synod_doc_20120619_instrumentum-xiii_en.html

[10] https://tgpsaigon.net/bai-viet/dong-da-minh-viet-nam-44751

[11] VUCA: Volatility - biến động, Uncertanty - bất định, Complexity - phức tạp, Ambiguity - mơ hồ.

[12]Công đồng Vatican II, Hiến chế Giáo hội – Lumen Gentium, 1964, số 4. 

[13] Công đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội – Lumen Gentium, số 28.

[14] Đức Bênêđictô, Bài giáo lý, ngày 26/05/2010.

 

[15] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, số 01.

[16] Huấn Quyền & Lời Chúa, NXB Đà Nẵng2023, 59

[17] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 19: AAS 87 (1995), 933.

 

[18] Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 10

[19] HĐGM Việt Nam, Tập san Hiệp Thông, số 104, 2018

 

[20] https://tuoitre.vn/quy-luat-7---38---55-trong-giao-tiep-214886.htm

[21] X. Tông huấn Niềm Vui Tình Yêu, số 294 và 305

[22] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/mot-luong-dinh-ve-tai-truyen-giang-tin-mung-42609