Không có ‘điều kiện’, không có ‘nếu’, ‘và’ hoặc ‘nhưng’, lời Chúa nói với chúng ta một cách thẳng thắn không vòng vo rằng tình yêu là điều tuyệt vời nhất (1Cr 13, 13). Kinh Thánh không bao giờ nói rằng Thiên Chúa là công lý, là sự hoàn mỹ, hay là sự công chính, mặc dù Ngài là Đấng công minh, hoàn mỹ và công chính. Nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết: "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4, 8). Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Mọi thứ nơi Ngài đều là tình yêu. Thậm chí ngay cả sự công chính của Ngài cũng là tình yêu. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 1, 17) đã đồng hoá "sự công chính của Thiên Chúa" với sự kiện bất công nhất trong toàn bộ lịch sử, đó là sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và bị đóng đinh trên cây thập giá, vì đó là hành động thể hiện tình yêu lớn lao nhất của Thiên Chúa.
Tuy thế, trong cuộc sống của chúng ta, không có từ nào bị hiểu nhầm hơn là cụm từ “tình yêu”. Một trong những cuốn sách rất bổ ích mà chúng ta có thể đọc đó là kiệt tác nhỏ bé, giản dị của C.S. Lewis: "Bốn Loại Tình Yêu". Trong tác phẩm đó, tác giả đã cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa bốn loại tình yêu. Loại tình yêu thứ nhất là tình yêu agape, là thứ tình yêu mà chính Chúa Giêsu đã giảng dạy và đã sống; loại tình yêu thứ hai là storge là thứ tình cảm tự nhiên hay là sự ưa thích; loại thứ ba là eros, nghĩa là thứ tình yêu nhuốm màu tính dục; và cuối cùng là philia, nghĩa là tình bạn hữu. Trong bốn loại tình yêu đó thì tình yêu agape mới là thứ tình yêu vĩ đại nhất trên trần gian này.
Trong tiếng Anh, có một từ cổ được dùng để diễn tả ý nghĩa của từ ‘agape’ đó là từ ‘charity’ nghĩa là lòng bác ái. Rất tiếc, đối với nhiều người ngày nay, từ này chỉ có nghĩa đơn giản là việc giúp đỡ người nghèo, người ăn xin hoặc quyên góp cho quỹ từ thiện nào đó. Ngay cả từ ‘tình yêu’ cũng bị hiểu lầm như thế. Đa phần khi nói đến tình yêu người ta thường nghĩ đến thứ tình yêu nhuốm mầu tính dục (eros), hoặc một thứ cảm xúc (storge), hay là một thứ tình cảm mơ hồ chung chung. Có lẽ chính vì thế mà cần phải sử dụng từ gốc Hy Lạp ‘agape’ (phát âm là ah-gah-pay) để diễn tả tình yêu thực sự, cho dù có vẻ mang tiếng là uyên bác hoặc nặng tính học thuật, nhưng nó sẽ giúp ta không bị nhầm lẫn điều quan trọng nhất trên trần gian này với những thứ khác và không để mất đi ý nghĩa của nó; bởi vì trong xã hội của chúng ta, người ta toàn hiểu lầm về cụm từ đó.
Sự hiểu lầm đầu tiên và phổ biến nhất về từ ‘agape’ đó là nhầm lẫn nó với cảm xúc. Cảm xúc của chúng ta là điều trân quý, thế nhưng ‘agape’ còn trân quý hơn. Cảm xúc đến với chúng ta một cách thụ động, còn ‘agape’ lại xuất phát từ chính chúng ta, một cách chủ động, qua sự lựa chọn tự do của chúng ta. Chúng ta không chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình, chúng ta không thể thay đổi được cảm xúc của mình, nhưng chúng ta chịu trách nhiệm về ‘agape’ của mình hay chịu trách nhiệm về việc thiếu ‘agape’; phải chịu trách nhiệm suốt đời vì ‘agape’ xuất phát từ chính chúng ta còn cảm xúc đến từ bên ngoài: từ gió, từ thời tiết và từ hệ tiêu hóa. "Tình yêu" đến từ làn gió xuân; tình yêu thật sự xuất phát từ chiều sâu của tâm hồn, mà Kinh Thánh gọi là trái tim (một cụm từ chúng ta đã lãng mạn hóa nó và giảm nó xuống thành cảm xúc). Yêu thích là một cảm xúc. Nhưng tình yêu (agape) thì hơn hẳn cả sự thích thú mãnh liệt. Chỉ có kẻ ngốc mới ra lệnh cho ai đó phải có cảm xúc như thế này như thế kia. Chúa không phải là kẻ ngốc cho nên Chúa truyền lệnh cho chúng ta yêu mến chứ không phải có cảm xúc thế này hay thế kia.
Chúa Giêsu có cảm xúc khác nhau đối với những con người khác nhau nhưng Ngài yêu tất cả mọi người một cách bình đẳng và tuyệt đối. Tuy thế, làm sao chúng ta có thể yêu ai đó nếu chúng ta không thích họ? Đơn giản, bởi vì chúng ta vẫn thường làm điều đó với chính bản thân mình. Không phải lúc nào chúng ta cũng có những cảm xúc dịu dàng, thoải mái về bản thân mình. Đôi khi, chúng ta cảm thấy ngớ ngẩn, ngu ngốc, vô lý hay tội lỗi. Nhưng chúng ta luôn yêu bản thân mình: chúng ta luôn tìm kiếm điều tốt cho bản thân. Quả thực, ngay cả khi chúng ta không thích chính mình, tự trách móc bản thân thì đó cũng là vì chúng ta yêu chính mình; bởi lẽ, chúng ta quan tâm đến điều tốt của mình, chúng ta thiếu kiên nhẫn với điều xấu của mình.
Chúng ta “vướng vào tình yêu” nhưng chúng ta không “vướng vào agape”. Chúng ta vươn lên trong ‘agape’. Thiên Chúa là ‘agape’ và ‘agape’ không phải là cảm xúc. Vì vậy, Thiên Chúa không phải là cảm xúc. Điều đó không làm cho Thiên Chúa hay ‘agape’ trở nên lạnh lùng và trừu tượng. Trái lại, Thiên Chúa chính là tình yêu thực sự, còn cảm xúc chỉ là những gì nhỏ bé, yếu ớt của tình yêu được tiếp nhận trong trạng thái thụ động. Thiên Chúa không thể "rơi vào tình yêu" đơn giản là vì cũng giống như nước không thể "ướt", bởi vì nước đương nhiên ướt! Tình yêu không thể tiếp nhận tình yêu trong một trạng thái thụ động mà chỉ có thể lan tỏa tình yêu như là một hoạt động. Thiên Chúa là tình yêu trong hành động, chứ không phải tình yêu trong mơ. Cảm xúc giống như giấc mơ: dễ dàng, thụ động, tự phát; còn ‘agape’ thì chắc chắn và quý giá như một viên kim cương.
Điều này dẫn tới một sự hiểu lầm thứ hai. Đối tượng của tình yêu luôn luôn là những cá nhân cụ thể, nhưng không phải là một khái niệm mà người ta vẫn thường gọi là nhân loại. Yêu nhân loại thì dễ dàng hơn bởi vì nhân loại không khiến cho bạn phải bất ngờ ngạc nhiên với những đòi hỏi khó chịu. Bạn chẳng bao giờ gặp nhân loại đứng trước cửa nhà mình, quần áo bốc mùi và quấy rầy xin xỏ. Chúa Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu nhân loại nhưng Ngài yêu cầu chúng ta yêu người thân cận, tất cả những người bà con lối xóm mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày giống như chính Ngài đã làm. Ngài đã chết vì tôi và vì bạn, chứ không phải vì nhân loại. Trên Thập giá có ghi khắc tên của chúng ta, chứ không phải tên của "nhân loại". Khi Chúa Giêsu nói mình là Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã nói rằng Ngài "gọi tên từng con chiên của mình” (Ga 10,3). Tin Mừng đến với bạn không phải qua một tờ báo có ghi: "Kính gửi độc giả", mà là trong một phong bì viết tay, gửi riêng cho bạn, như một bức thư tình của Thiên Chúa gửi riêng cho bạn. Có một vị thánh đã từng nói rằng Chúa Giêsu sẽ làm mọi điều Ngài đã làm và chịu mọi điều Ngài đã chịu chỉ vì bạn, ngay cả khi bạn là người duy nhất đã phạm tội. Quả thực, Ngài đã làm như vậy! Đây không phải là "nếu"; đây là sự thật. Từ trên thập giá, đôi mắt yêu thương của Ngài đã nhìn thấy bạn. Mỗi vết thương trong năm dấu đinh của Ngài đều là những đôi môi đang gọi tên bạn!
Ông nội thì tốt bụng nhưng người cha thì yêu thương. Sự hiểu lầm thứ ba, liên quan đến tình yêu, đó là nhầm lẫn tình yêu với lòng tốt. Thật thế, lòng tốt vốn chỉ là một trong những thuộc tính thường thấy của tình yêu mà thôi. Lòng tốt là mong muốn làm điều gì đó giúp tha nhân bớt đau khổ. Tình yêu thì mong muốn điều tốt cho tha nhân. Một người cha có thể đánh con mình vì yêu thương. Và Thiên Chúa là một người cha.
Quả thực, Thiên Chúa không phải chỉ là lòng tốt, bởi Ngài không loại bỏ mọi đau khổ, dù Ngài có quyền năng làm điều đó. Thật vậy, chính vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng và có thể dùng phép lạ ngay lập tức khiến cho thế giới này không còn đau khổ nữa, nhưng Ngài lại không chọn làm như thế, nên những người không có niềm tin đã vịn vào lý do này mà biện minh cho thái độ bất tín của họ đối với Ngài. Lập luận sai lầm đầu tiên của chủ nghĩa vô thần bắt nguồn từ sự nhầm lẫn giữa tình yêu và lòng tốt.
Càng yêu thương ai đó, thì tình yêu của chúng ta càng vượt lên trên lòng tốt. Chúng ta chỉ tốt bụng với thú cưng, và do đó, chấp nhận để cho thú cưng chết "để giải thoát chúng khỏi đau khổ" khi chúng bị đau đớn. Ở Mỹ ngày càng có áp lực hợp pháp hóa việc an tử - cái chết êm dịu (euthanasia). Cho đến nay, chỉ có Đức Quốc xã và Hà Lan là những nước hợp pháp hóa cái chết êm dịu, và cái ác này cũng bắt nguồn từ sự nhầm lẫn giữa tình yêu và lòng tốt. Chúng ta tốt bụng với người lạ, nhưng rất yêu sách đối với những người mình yêu. Nếu một người lạ nói với bạn rằng anh ta nghiện ma túy, bạn có thể sẽ nhẹ nhàng và từ từ khuyên bảo anh ta; nhưng nếu con trai hay con gái bạn nói vậy, có lẽ bạn sẽ la hét ầm lên.
Ông nội thì tốt bụng, còn người cha thì yêu thương. Ông nội thường nói: “Các cháu đi chơi vui vẻ nhé”, còn người cha thì nói: “Các con đi chơi thì đừng có làm thế này hay thế kia.” Ông nội thì có lòng trắc ẩn, còn người cha thì sôi nổi nhiệt thành. Chưa từng nghe có ai gọi Thiên Chúa là ông nội, cho dù chúng ta có thể muốn như thế hơn là muốn người cha gần gũi, thân mật, yêu thương những cũng nghiêm khắc. Câu nói mà chúng ta vẫn thường được nghe nhiều nhất trong đời sống hàng ngày mang giọng điệu triết lý của một ông nội đó là: “Chúc một ngày tốt lành.” Nhiều linh mục còn làm cho thứ triết lý này trở nên linh thiêng khi dùng câu này làm câu kết thúc Thánh lễ. Thật ra, Thánh lễ là việc thời phượng Thiên Chúa là Cha chứ không phải là thờ phượng Thiên Chúa như một ông nội.
Sự hiểu lầm thứ tư về tình yêu đó là sự nhầm lẫn giữa “Thiên Chúa là tình yêu” và “tình yêu là Thiên Chúa.” “Thiên Chúa là tình yêu” là điều tuyệt vời nhất mà chúng ta từng nghe. Nhưng “tình yêu là Thiên Chúa” thì là điều vô cùng vô nghĩa. Việc thờ phượng tình yêu thay vì thờ phượng Thiên Chúa dẫn đến hai sai lầm chết người. Thứ nhất, làm như thế là người ta sử dụng cụm từ Thiên Chúa như là một từ khác thay thế cho tình yêu. Thiên Chúa được coi như là một lực hay năng lượng chứ không phải là một ngôi vị. Thứ hai, làm như thế là ta thần thánh hóa thứ tình yêu mà ta đã biết thay vì cho ta thấy một tình yêu ta mà ta chưa biết.
Để hiểu rõ điểm này chúng ta xem xét một vài ví dụ. Câu nói “A là B” không có cùng một nghĩa giống như “A bằng B.” Nếu A = B thì B = A, nhưng nếu A là B thì không có nghĩa B là A. Ví dụ: “Ngôi nhà đó được làm bằng gỗ” không có nghĩa “Gỗ là ngôi nhà đó.” “Một thiên thần là thần khí” không có nghĩa “Thần khí là một thiên thần.” Khi ta nói “A là B,” ta bắt đầu với một chủ ngữ, và chủ ngữ ấy là A, mà ta giả định người nghe đã biết, rồi thêm một tính từ mới cho chủ ngữ ấy. Ví dụ: “Mẹ bị ốm” nghĩa là “Bạn đã biết mẹ rồi, để tôi nói cho bạn điều bạn chưa biết: bà ấy (mẹ) đang ốm.”
Vì thế, “Thiên Chúa là tình yêu” có nghĩa là “Để tôi nói cho bạn điều mới mẻ về Thiên Chúa là Đấng mà bạn đã biết: Ngài là tình yêu và tình yêu này là yếu tính của Ngài. Thế nhưng khi nói: “Tình yêu là Thiên Chúa” có nghĩa là “Để tôi nói cho bạn điều gì đó về tình yêu mà bạn đã biết, tình yêu nhân loại của bạn: tình yêu ấy chính là Thiên Chúa. Tình yêu nhân loại đó chính là thực tại tối hậu. Tình yêu đó chính là cứu cánh rồi. Không cần phải tìm kiếm Thiên Chúa nữa.” Nói cách khác, “Thiên Chúa là tình yêu” là điều sâu sắc nhất ta đã từng nghe. Nhưng “tình yêu là Thiên Chúa” thì là điều hoàn toàn vô nghĩa.
Sự hiểu lầm thứ năm về tình yêu đó là ý tưởng cho rằng bạn có thể yêu tình yêu. Không, bạn không thể, cũng giống như bạn không thể có đức tin trong đức tin, hoặc hy vọng trong hy vọng, hay nhìn thấy ánh sáng. Tình yêu là một hành động, một lực hay một năng lượng, còn con người thì không chỉ là những thứ đó, có cái gì đó hơn thế nhiều. Đối tượng chúng ta yêu bằng ‘agape’ phải là một ngôi vị, một con người cụ thể, chân thực nhất vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là thực tại tối hậu, và tên của Ngài là “Ta Là”, một Danh xưng cho một ngôi vị. Bạn không thể “yêu tình yêu”. Nếu ai đó nói họ yêu tình yêu, thì tình yêu đó không phải là ‘agape’ mà chỉ là cảm xúc.
Sự hiểu lầm thứ sáu về tình yêu đó là cho rằng định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” không có liên quan gì đến thần học tín lý, đặc biệt là giáo lý về Chúa Ba Ngôi. Ai cũng thừa nhận rằng “Thiên Chúa là tình yêu,” nhưng liệu tín điều về Chúa Ba Ngôi có phải là một điểm giáo lý rối rắm chỉ dành cho giới tinh hoa thần bí không? Không phải vậy! Nếu Thiên Chúa không phải là Ba Ngôi thì Thiên Chúa không phải là tình yêu. Vì tình yêu cần ba thứ: một người yêu, một người được yêu và mối tương quan giữa người yêu và người được yêu. Nếu Thiên Chúa chỉ là một ngôi vị duy nhất, thì Ngài có thể là người yêu, nhưng không thể là chính tình yêu được.
Chúa Cha yêu Chúa Con, Chúa Con yêu Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là tình yêu phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con từ muôn đời. Nếu không như vậy thì Thiên Chúa sẽ cần đến chúng ta, Ngài sẽ không thể trọn hảo nếu thiếu chúng ta, thiếu ai đó để yêu. Và như thế, việc Ngài sáng tạo nên chúng ta sẽ không phải vì Ngài là Đấng hoàn toàn vị tha, nhưng là một Đấng ích kỷ chỉ sáng tạo nên chúng ta nhằm đáp ứng nhu cầu của chính mình!
Tình yêu là một bông hoa, hy vọng là cuống hoa và ơn cứu độ là toàn bộ cây hoa. Ân sủng của Thiên Chúa, chính sự sống của Ngài, đến với chúng ta bằng đức tin, như nước thấm qua rễ cây. Ân sủng ấy lớn lên trong ta bằng niềm hy vọng, giống như nhựa sống lớn lên qua thân cây. Ân sủng ấy nở hoa từ những cành của ta và trở thành trái cho người thân cận hưởng dùng.
Đức tin giống như mỏ neo. Đó là lý do tại sao nó phải bảo thủ, thậm chí hơi cứng nhắc, như một cái mỏ neo. Đức tin phải trung thành. Hy vọng giống như la bàn hay người chỉ đường. Nó chỉ cho ta phương hướng và lấy phương hướng đó từ các vì sao. Chính vì thế, hy vọng phải thăng tiến và hướng về tương lai. Tình yêu giống như cánh buồm, giương ra đón gió. Tình yêu chính là năng lượng thực sự cho cuộc lữ hành. Do đó, tình yêu phải rộng lượng, quảng đại, mở lòng ra đón nhận ngọn gió của Thánh Thần.
Agape hoàn toàn không có khả năng chống lại kiểu phản biện của Freud: “Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều xứng đáng được yêu.” Đúng vậy, họ không xứng đáng. Tình yêu vượt lên trên giá trị, vượt trên công lý và vượt trên lý trí. Lý do luôn được người trên đưa ra, thế nhưng không có gì cao cả hơn tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. (câu này hơi trìu tượng ạ!)
Khi con trai tôi khoảng sáu tuổi, nó hỏi tôi: “Bố ơi, tại sao bố yêu con?” Lúc đầu tôi không đưa ra câu trả lời chân thành xác thực nhưng tôi đưa ra câu trả lời mà tôi nghĩ là con tôi muốn nghe: “Bởi vì con là đứa trẻ tuyệt vời. Con ngoan, thông minh và mạnh mẽ.” Nhưng khi nói xong, tôi thấy nó thất vọng nên tôi quyết định thành thật nói với nó: “Con à, bố chỉ yêu con vì con là con của bố thôi!” Nó nở một nụ cười mãn nguyện, chạy đến ôm tôi và nói: “Con cảm ơn bố”. Có lần, một sinh viên hỏi tôi ở trên lớp: “Tại sao Thiên Chúa lại yêu chúng ta nhiều như thế?” Tôi trả lời đó là huyền nhiệm vĩ đại nhất trong tất cả các mầu nhiệm, và sau một năm nữa nên quay lại đây để gặp tôi xem tôi có giải thích được huyền nhiệm đó không. Đúng một năm sau, cô ấy quay trở lại với một thái độ rất nghiêm túc. Cô thực sự muốn một câu trả lời. Tôi phải giải thích rằng quả thực đây là điều không thể giải thích được.
Cuối cùng, có một nghịch lý nội tại không thể hiểu nơi tình yêu ‘agape’. Trong tình yêu ‘agape’ một cách nào đó bạn trao đi chính mình, không chỉ thời gian, công sức, tài sản hay thậm chí chính thân thể bạn. Bạn đặt chính mình vào tay mình và trao nó cho người khác. Và khi bạn làm điều không tưởng này thì một điều không tưởng khác xảy ra: Bạn tìm thấy chính mình chính lúc đánh mất mình. Bạn bắt đầu trở nên chính mình khi trao ban chính mình. Bạn khám phá ra một bản ngã mới chân thực hơn được ban tặng cho bạn một cách nào đó. Khi bạn là người trao tặng thì một cách nào đó bạn lại khám phá ra mình chính là người đón nhận, đón nhận chính món quà mà bạn đã trao tặng.
Hơn thế nữa, chẳng có gì thực sự thuộc về bạn. Sức khỏe, công việc, trí tuệ, tài sản của bạn, tất cả những thứ đó đều không thực sự là của bạn như bạn vẫn tưởng. Chúng chỉ là sự may rủi, một khoản vay mượn, là hư không. Bạn sẽ khám phá ra điều đó khi bạn nhận biết Thiên Chúa là ai. Khi gặp gỡ diện đối diện với Thiên Chúa trong cầu nguyện, chứ không phải chỉ là đối diện với một khái niệm xác thực về Ngài, bạn sẽ thấy mình chẳng là gì cả.
Các thánh đều nói chúng ta chẳng là gì cả. Càng đến gần Thiên Chúa, bạn càng thấy rõ điều đó, bạn càng thấy mình nhỏ bé hơn. Giả như bạn coi thường Thiên Chúa thì bạn sẽ tưởng mình là nhân vật quan trọng, như một quả pháo đại bác vậy. Còn nếu bạn biết Thiên Chúa thì bạn sẽ biết rằng mình thậm chí chẳng phải là viên cắc tút (“catut”). Những ai coi thường Thiên Chúa thì họ vẫn hay nghĩ mình là số một. Những ai có một chút khái niệm chung chung về Thiên Chúa thì họ nghĩ mình là “người tốt.” Những ai hiểu biết chút giáo lý chính thống thì họ biết mình chỉ là những thụ tạo có thật đấy nhưng lại rất hữu hạn, được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa nhưng đã bị tội lỗi làm cho ra hư hỏng. Còn những ai thực sự bắt đầu bước vào đời sống cầu nguyện thì họ thấy rằng so với Thiên Chúa, họ chỉ như những hạt bụi dưới ánh mặt trời. Và cuối cùng, chính các thánh lại nhận mình chẳng là gì cả. Hay như thánh Phaolô có nói: Cuối cùng, các thánh nói họ chẳng là gì cả. Hoặc như chính thánh nhân đã từng nhận mình là “kẻ đứng đầu trong số các tội nhân”. Quả thực, tội nhân thường lại nghĩ mình là thánh, còn thánh nhân lại nhận ra mình chỉ là tội nhân!
Vậy thì ai đúng? Làm sao chúng ta có thể đánh giá được nhận thức này? Trừ khi Thiên Chúa là Cha của sự gian dối (một sự phạm thánh tột cùng), nếu không thì nhận xét của các thánh là đúng. Bạn càng đến gần Thiên Chúa thì bạn càng biết đúng và biết rõ về mình. Năm nhóm người liệt kê trên đây (từ người coi thường Thiên Chúa đến các thánh) tạo thành một hệ thống xếp loại nhận thức. Tự bản chất, chẳng có gì thực sự thuộc về chúng ta. Ngay cả chính sự hiện hữu của chúng ta cũng hoàn toàn là một quà tặng. Hãy dành chút thời gian suy nghĩ về một thực tế rằng bạn đã được tạo dựng từ hư không. Nếu một nhà điêu khắc mang lại cho một khối đá cẩm thạch một hình dáng tinh xảo thì hình dáng đó chính là món quà, còn chính sự hiện hữu của khối đá ấy thì không. Sự hiện hữu của viên đá thuộc về chính nó. Nhưng chẳng có gì thuộc về chúng ta bởi vì chúng ta được dựng nên từ hư không. Sự hiện hữu của chúng ta là một quà tặng của Thiên Chúa và quà tặng ấy Thiên Chúa chẳng trao tặng cho ai cả vì chúng ta chưa có ở đó trước khi Ngài tạo dựng chúng ta. Do đó, Ngài không tạo dựng chúng ta cho chúng ta. Không có người nhận quà và món quà. Vì thế, chúng ta chỉ là quà tặng của Thiên Chúa.
Như vậy các thánh đã đúng. Nếu tôi chẳng là gì thì cũng chẳng có gì thực sự thuộc về tôi. Tự bản chất chẳng có gì thực sự thuộc về tôi. Tuy nhiên, vẫn có một điều thực sự là của tôi nhờ sự lựa chọn tự do của tôi. Đó chính là bản ngã mà tôi đã trao ban cho tha nhân trong tình yêu. Đó là điều mà ngay cả Thiên Chúa cũng không thể làm thay cho tôi được. Đó là lựa chọn của tôi. Tất cả những gì tôi nói là của tôi đều không phải của tôi. Nhưng mọi thứ tôi nói là của bạn thì là của tôi. Khi được hỏi trong thư viện của ông, cuốn sách ông nghĩ sẽ được mang theo lên thiên đàng, C. S. Lewis trả lời: “Chỉ có những cuốn tôi đã trao ban trong cuộc sống nơi trần gian này mà chưa lấy lại được.” Điều đó cũng đúng với chính bản thân chúng ta. Nó giống như quả bóng trong trò chơi ném bắt: bạn ném đi thì nó sẽ quay về với bạn; nếu bạn giữ lấy thì trò chơi kết thúc.
Lm. Giuse Nguyễn Đình Dương chuyển ngữ theo Peter Kreeft