Chúa Nhật Tuần III - Mùa Chay

Thứ bảy - 11/03/2023 04:30      Số lượt xem: 456

Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.


Tin MừngXh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42
 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy : “Chị cho tôi xin chút nước uống !”  Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.  Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói : “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giê-su trả lời : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”  Chị ấy nói : “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ?  Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”  Đức Giê-su trả lời : “Ai uống nước này, sẽ lại khát.  Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”  Người bảo chị ấy : “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.”  Người phụ nữ đáp : “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo : “Chị nói : ‘Tôi không có chồng’ là phải,  vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.”  Người phụ nữ nói với Người : “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ ...  Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này ; còn các ông lại bảo : Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.”  Đức Giê-su phán : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.  Các người thờ Đấng các người không biết ; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.  Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.  Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.”  Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”  Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi : “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”  Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta :  “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?”  Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng : “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.”  Người nói với các ông : “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.”  Các môn đệ mới hỏi nhau : “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?”  Đức Giê-su nói với các ông : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.  Nào anh em chẳng nói : Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em : Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái ! Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.  Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng !  Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả ; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.  Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.  Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.  Họ bảo người phụ nữ : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

 
Ca hiệp lễ
 
Ga 4,13-14 
Chúa nói : “Ai uống nước tôi cho,
thì nơi người ấy,
nước đó sẽ trở thành
một mạch nước chảy vọt,
mang lại sự sống đời đời.”
SUY NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN
SUY NIỆM 
TÔI SẼ VUN XỚI
Giáo Hội cho đọc Bài Tin Mừng này trong Mùa Chay
vì qua bài đọc này, Đức Giêsu khẩn thiết mời ta hối cải.
Ai cũng biết hối cải, hoán cải hay sám hối là quan trọng.
Nhưng chúng ta vẫn thường nghĩ
hối cải không phải là chuyện của mình
nhưng là chuyện của người khác, của những kẻ tội lỗi.
Khi Đức Giêsu đang giảng về hoán cải (Lc 12,57-59),
có mấy người đến kể cho Ngài nghe một chuyện kinh khủng.
Đó là chuyện quan Philatô giết một số người vùng Galilê,
lấy máu của họ hòa với máu của các con vật họ đang dâng.
Mà chuyện ấy lại xảy ra ngay trong khuôn viên Đền thờ.
Không rõ mấy người kể chuyện có mục đích gì.
Họ có muốn Đức Giêsu lên tiếng chống lại Philatô không?
Họ có coi những ai bị giết là tội nhân, bị Chúa phạt không?
Đức Giêsu không muốn giải thích tại sao có tai họa đó.
Ngài chỉ mạnh mẽ loại bỏ lối suy nghĩ cho rằng
những người Galilê đã chết bi thảm là những kẻ có tội
nặng hơn những người Galilê còn đang sống (Lc 13,2).
Hơn nữa, Ngài muốn qua biến cố đau thương này
đưa người ta ra khỏi sự tự mãn và bình an giả tạo,
để thay vì quay ra các nạn nhân, thì quay vào lòng mình.
Mọi thảm kịch xảy ra đều là lời mời gọi để tôi hoán cải.
 
Đức Giê su còn kể thêm chuyện một tai nạn lao động.
Tháp Si-lô-ác đè chết mười tám người ở Giêrusalem.
Những tai nạn chết chóc vẫn cứ xảy ra hàng ngày quanh ta.
Nếu ta còn được an toàn, thì không phải vì ta thánh hơn,
nhưng vì Chúa còn cho ta thời giờ để hối cải.
Dụ ngôn cây vả sau đây minh họa cho ta thấy điều đó.
 
Ông chủ đã trồng một cây vả trong vườn nho của mình.
Ông biết rõ chỗ đứng của cây vả trong vườn.
Nó cũng có chỗ đứng trong lòng của ông.
Ông phải chờ nhiều năm mới được phép ăn trái của nó:
chờ ba năm sau khi nó bói những trái đầu tiên,
chờ thêm một năm để dành trái dâng cho Chúa (Lv 19,23-25).
Tiếc thay, khi ông được phép ăn trái thì lại không có.
Năm nào, vào mùa vả, ông cũng đến, tìm trái mà không thấy.
Ông tiếp tục chờ, kiên nhẫn chờ đủ ba năm.
Chẳng ai dám bảo là ông nóng nảy hay độc ác
khi ông nói với người làm vườn: “Anh chặt nó đi!”
Chặt đi cây vả mà ông quan tâm và yêu mến
là một quyết định khó khăn, nhưng hợp lý.
Ông đã hy vọng, đã chờ và đã thất vọng nhiều lần.
Ông đành phải ra lệnh chặt đi khi thất vọng thành tuyệt vọng.
Chặt đi để dành đất màu cho các cây khác, vậy thôi.
 
Không ai có thể ngờ được một mệnh lệnh như thế
lại có thể bị can ngăn bởi sự can thiệp của người làm vườn.
Anh này lịch sự xin ông chủ đừng chặt ngay.
Anh xin cho cây vả được sống thêm một năm nữa.
Chẳng những thế anh còn hứa sẽ chăm chút cho cây.
“Tôi sẽ vun xới chung quanh và bón phân cho nó.”
Anh còn niềm hy vọng tuy nhỏ nhoi, nhưng chưa bao giờ tắt.
Anh hy vọng sang năm nó sẽ có trái.
Nếu không, chặt đi cũng chẳng muộn (Lc 13,8-9).
Dụ ngôn cây vả không ra trái đã kết thúc ở đó.
Không thấy ông chủ nói gì, chắc ông đồng ý với anh.
Cũng không rõ cây vả năm sau có ra trái không.
 
Có thể coi ông chủ của cây vả là hình ảnh của Thiên Chúa.
Một Thiên Chúa sáng tạo, quan tâm và hy vọng nơi con người.
Một Thiên Chúa chờ đợi và thất vọng vì con người.
Một Thiên Chúa có tình yêu bị từ chối, nên đành đoạn tuyệt.
Tuy nhiên, đây cũng là một Thiên Chúa mềm mại,
có thể đổi ý, chứ không máy móc.
Có thể coi người làm vườn là hình ảnh của Đức Giêsu.
Một Đấng xin Cha trì hoãn để cây vả được sống thêm.
Một Đấng tận tâm tạo điều kiện tốt để cây vả sinh trái.
Cuối cùng chỉ còn chuyện của cây vả, của chúng ta.
Chúng ta là cây vả có trách nhiệm sinh trái nhiều và ngon.
Cả ông chủ và người làm vườn đều đang chờ, một năm nữa…
 
LỜI NGUYỆN
 
Lạy Chúa, con cám ơn Chúa
về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.
Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.
Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui
và những ngày tủi thân buồn bã.
Chúc tụng Chúa về cả những gì
Chúa đã không cho con được hưởng.
 
Lạy Chúa, xin đừng sa thải
người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.
Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,
xin đừng đuổi con xa Chúa.
Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.
Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,
để không bao giờ mỏi mệt về con,
và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.
 
Xin Chúa đến giúp con,
ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,
cho con biết cậy trông
cả những khi cùng đường tuyệt vọng,
cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,
một chiến thắng huy hoàng nơi con.
 
                                                   Karl Rahner

 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

  Ẩn/Hiện ý kiến

Những tin mới hơn

 

Những tin cũ hơn

DC VC NVB Tach nen
BÀI VIẾT ĐƯỢC QUAN TÂM
THÁNH CA
HỌC HỎI LỜI CHÚA
  •   Đang truy cập 158
  •   Máy chủ tìm kiếm 17
  •   Khách viếng thăm 141
 
  •   Hôm nay 65,274
  •   Tháng hiện tại 860,586
  •   Tổng lượt truy cập 80,793,486