Giáo Phận Hải Phòng

http://gphaiphong.org


Những bài suy niệm về Thánh Giuse

Những Bài Suy Niệm Về Thánh Giuse

1.   GIUSE, CON NGƯỜI CỦA NIỀM TIN

ĐGM Giuse Vũ Duy Thống

Trong Phúc Âm, Thánh Giuse được giới thiệu là “người công chính” gắn liền với đời sống âm thầm. Không một lời nào của ngài được ghi nhận. Nhưng giữa những biến cố bên cạnh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse lại xuất hiện trong một diện mạo khác, vừa năng động mau mắn vừa xác quyết tin yêu. Nếu đức tin là một sự lên đường liên tục thì thông qua những đáp ứng lên đường mau mắn của Giuse trong những lần được mộng báo, ta có thể gọi ngài là “con người của niềm tin”.

  • Lên đường ra khỏi ý riêng để tìm theo thánh ý

Cũng như bao người ngoan đạo thời bấy giờ, thánh Giuse thể hiện niềm tin tôn giáo qua việc tuân hành lề luật được ban hành dưới thời Môsê. Luật là kim chỉ nam đời sống, luật cao trọng hơn cả bạc vàng, luật quý giá hơn những lời tinh hoa, luật nên như ánh sáng soi đường công chính. Sự công chính của một người được đánh giá xếp hạng tuỳ vào sự tuân giữ lề luật này. Luật lệ với những quy định rạch ròi, càng tuân thủ khít khao bao nhiêu, càng được đánh giá ở mức độ cao trên đàng công chính bấy nhiêu. Nhưng bước vào chương trình của Thiên Chúa, Giuse được mời gọi phải lên đường ra khỏi ý riêng vốn được luật lệ khuôn định để đến với thánh ý Chúa, đón nhận và tuân hành.

Giấc mộng báo thứ nhất đã nói lên tất cả. Nếu theo luật lệ, Giuse vốn là người công chính, chẳng những không được đón Maria đang mang thai lạ về nhà, mà còn phải nhân danh sự công chính để tố giác Maria trước cộng đồng nữa. Nhưng theo thánh ý thể hiện qua lời sứ thần trong mộng báo, Giuse đã đón nhận Maria trọn vẹn trong tình yêu, để trở nên công chính bằng cách ra khỏi lựa chọn theo tiêu chuẩn của thói quen luật lệ mà gắn bó với lời gọi đầy mạo hiểm của Thiên Chúa. Ý Chúa thật đáng ngại, làm đảo lộn tất cả khuôn sáo ngày trước để mở ra nẻo lối yêu thương. Giuse đã sẵn lòng từ bỏ sự công chính theo tiêu chuẩn của luật lệ để bước theo sự công chính theo chuẩn mực của tình yêu. Chính đây là việc lên đường đầu tiên của niềm tin.

  • Lên đường ra khỏi sự yên ả để lao đầu vào sóng gió

Đón nhận Maria về chung sống, tưởng rằng từ nay đời có Chúa êm trôi êm trôi, Chúa dắt dìu đi không ngơi không ngơi, nào ngờ tình yêu tuyệt vời chưa kịp thấy, Giuse đã gặp đường đi đơn côi và vất vả chừng như gia tăng gấp bội. Nào là phải lên đường trở về nguyên quán Belem đăng ký hộ khẩu khi Maria đang ở những ngày cuối thai kỳ, nào là phải gạt lệ chịu để Chúa Giêsu được sinh ra trong hang đá nơi trú ẩn của bò lừa, và đỉnh cao là giấc mộng báo thứ hai: “Hãy đem trẻ Giêsu và mẹ Người trốn sang Ai Cập”. Quả là trách nhiệm một thân với đôi vai gánh gồng. Niềm tin là như thế đó, không phải là chọn lấy cuộc sống yên ả êm đềm, mà ngược lại luôn bị đẩy đưa ra giữa biển khơi sóng gió để chèo chống mà lớn lên trong lòng tin cậy mến.

Tin chính là một gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa để sống gắn bó bền lòng bất kể những thử luyện để mà lớn lên, những khổ đau để mà minh chứng, những cùng cực để mà thêm tín thác cậy trông. Thánh Giuse đã trải qua những biến cố thăng trầm ấy để trở nên tượng đài của lòng tin kiên cường. “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà đi theo”. Chúa Giêsu đã ra tiêu chuẩn như vậy. Kitô hữu, thuộc về Chúa Kitô và cũng bước đi theo Người, theo gương thánh Giuse và trong tinh thần Mùa Chay giữa lòng Năm Đức Tin, ta cũng sẵn sàng đón nhận thập giá bổn phận của bậc sống để vác lấy hằng ngày qua việc to việc nhỏ, được nhiều người biết đến hay chỉ trong âm thầm, mà bước đi theo Chúa bền bỉ trong cuộc đời mình.

  • Lên đường ra khỏi vòng hạn hẹp để sống chan hoà

Nếu giấc mộng thứ ba báo tin bạo chúa Hêrôđê băng hà là tin buồn cho người thuộc phe cánh ông thì lại là tin vui cho gia đình thánh: chấm dứt nỗi lo canh cánh bao ngày canh giữ và bảo toàn sinh mạng cho Đấng Cứu Thế, đồng thời cũng chấm dứt cảnh tha hương trốn chạy. Giấc mộng hồi hương tưởng xa biền biệt giờ đây đã đến. Quê hương vấn vương ngày nào giờ đây đã thân thương tỏ hiện. Nhưng trong chính cảm xúc rất đỗi tự nhiên ấy, thánh Giuse lại được thúc đẩy để không xuôi về Giuđêa miền nam mà ngược lên sinh sống tại Galilêa miền bắc để Chúa Giêsu sau này được người ta nhìn nhận như người Nazarét. Quả là tình tiết nhiệm mầu. Nếu Giuse trở lại miền nam co cụm bên ít gia đình quen biết kẻ mất người còn thì có lẽ mối quan hệ sẽ không tránh khỏi bị hạn chế, đàng này ngài đi xa hơn, mạo hiểm hơn, nhưng cũng đầy tính tiên liệu để trẻ Giêsu sau này lớn lên sẽ có môi trường rộng rãi hơn để thi thố ơn gọi đời mình. Đây không chỉ là việc tính toán mang mầu xã hội mà còn là thể hiện một sứ mạng tôn giáo. Niềm tin không dừng lại trong vòng tròn hạn hẹp địa lý tình thân sở thích, nhưng nhất thiết phải mở ra cho hết mọi người trong sự chan hoà lan toả.

Đành rằng tin là gặp gỡ gắn bó với Chúa, nhưng tin cũng lại là cánh cửa mở ra cho tình hiệp thông liên đới với mọi người đồng thời, cả về mặt Giáo Hội cũng như xã hội. Quả như một định luật dễ thương: ai càng gắn bó với Chúa, lại càng nhanh chóng được Chúa gửi đến với anh chị em chung quanh, để dấn thân lên đường phục vụ.

Tóm lại, chia sẻ về thánh Giuse như “con người của lòng tin” biết lên đường ra khỏi ý mình để tuân hành ý Chúa, ra khỏi sự yên ổn để dấn bước xông pha và ra khỏi vòng cục bộ để sống chan hoà, mong rằng đã trao đến cộng đoàn một chân dung khác của thánh Giuse, đầy nhiệt huyết, nhiều năng động và giầu tính Tin Mừng. Xin cho chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin gặp được nơi thánh Giuse hình mẫu sống động để vững bước theo Chúa giữa cuộc sống hôm nay, vốn đầy dẫy thử thách cám dỗ khó khăn của nếp sống cá nhân, gia đình, xóm đạo, giáo xứ, giáo phận. Nếu thánh Giuse đã vượt lên tất cả để khẳng định niềm tin, xin nhờ lời chuyển cầu của Ngài, cho mọi tín hữu hôm nay không chỉ bằng lòng tuyên xưng mà còn nỗ lực làm chứng cho đức tin nữa.

Mùa Chay cũng là mùa hồng ân, mùa cứu rỗi, mùa tìm về với tình thương của Thiên Chúa, xin cho gia đình giáo phận chúng ta theo gương thánh Giuse biết tìm hiểu và quyết tuân theo thánh ý, dẫu biết rằng sống theo thánh ý cũng chính là phải bước đi trên đường thánh giá, bởi lẽ ý Chúa thường ngược lại với ý riêng con người.

Chúc mừng những người mang bổn mạng Giuse và xin nhờ lời chuyển cầu của Ngài cho mọi người biết sống niềm tin mật thiết đầy đủ hơn và tươi tắn hạnh phúc hơn, đồng thời cũng biết chan hoà cưu mang những người khác, cách riêng những anh chị em cùng khốn chung quanh mình trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh. “Hôm nay ngày lễ quan thầy, Giuse thánh Cả tràn đầy ơn thiêng. Dâng câu hát, ngọt lời kinh, Khang an hạnh phúc, nguyện xin chúc mừng”.

 

2.   ĐẤNG BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ NHỮNG TÂM HỒN DÂNG HIẾN

Lm. Petrus Tá Đương, OP

 

Trong Giáo Hội, sau Đức Mẹ, Thánh Giuse là vị thánh cả trong Giáo Hội, được mọi người tôn kính mến yêu cách đặc biệt. Trong Kinh Thánh, thánh Giuse được gọi là người công chính. Thánh Giuse được Giáo Hội tôn vinh với nhiều tước hiệu cao quý. Một trong những tước hiệu đó là: Thánh Giuse – Đấng bảo trợ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến.

Đức Thánh Cha Piô IX, một vị Giáo hoàng có lòng sùng kính thánh Giuse đặc biệt, đã viết về thánh Giuse như sau : “Ngoài Đức Mẹ ra, thì trên trời dưới đất không tìm được vị thánh nào có thần thế để bênh vực Giáo Hội cho bằng thánh cả Giuse”.

Chính vì thế, ngày 8-12-1870, Ngài đã long trọng tuyên bố đặt Thánh Giuse làm quan thầy Giáo Hội hoàn vũ, ký thác Giáo Hội cho sự che chở phù trì của Thánh Cả Giuse.

Thánh Giuse, bổn mạng Giáo hội

Riêng đối với Giáo Hội Việt Nam, thánh Giuse đã trở nên gần gũi và thân thương. không chỉ vì Ngài là bạn thanh sạch của đức Maria và là cha nuôi của Đấng Cứu Thế, nhưng còn là Đấng bảo trợ luôn đồng hành với Giáo Hội Việt Nam suốt chặng đường dài lịch sử, từ lúc mới phôi thai cho tới trưởng thành.

Việc nhận thánh Giuse làm Đấng bảo trợ bắt nguồn từ một biến cố lịch sử trọng đại. Đó là sự kiện cha Alexandre de Rhodes và cha Marquez, sau những ngày vượt trùng dương nguy hiểm, nhờ lời khấn thánh Giuse hai cha đã cập bến an toàn, tại cửa Bạng – Thanh Hóa, đúng vào ngày 19-3-1627, ngày lễ kính thánh Giuse.

Hôm ấy, hai cha đã dâng thánh lễ cảm tạ thánh Giuse và phó thác Miền này cho Ngài gìn giữ.

Mừng lễ thánh Giuse hôm nay, chúng ta không chỉ dừng lại ở một vài nét lịch sử liên quan giữa Ngài với Giáo Hội, nhưng còn là dịp để chúng ta tìm hiểu và noi gương các nhân đức của Ngài.

Quả thực, Thánh nhân là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là con người thinh lặng. Nhưng được Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ và được trao phó việc chăm sóc con Thiên Chúa, như một người cha.

Cuộc sống của thánh nhân là cả một cuộc đời âm thầm, khiêm nhượng. Ngài đã tận tụy gìn giữ gia đình Nagiarét mà Chúa trao phó cho Ngài coi sóc, trông nom. Sự tận tụy hy sinh của Ngài còn được thể hiện qua việc lo lắng cho Đức Mẹ lúc nở nhuỵ khai hoa, khi trốn sang Ai Cập, lúc trở về Nagiaret… Ở đâu và trong hoàn cảnh nào, Ngài cũng lấy đức tin để soi chiếu vào mọi suy nghĩ, hành động và việc làm của mình.

Một niềm tin được cắm rễ sâu trong việc lắng nghe vâng phục ý Chúa, đã không chỉ làm sáng danh gia đạo, nhưng còn góp phần rất nhiều vào việc hình thành nhân cách của Chúa Giêsu, và giúp Chúa Giêsu thực hiện và hoàn tất sứ mạng cứu thế, đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao với tất cả lòng tin, sự hiền lành và khiêm nhượng.

Suốt cuộc đời dương thế, thánh Giuse đã tận tâm tận lực bảo vệ Đấng Cứu Thế. Ngày nay, được chung hưởng vinh quang trên trời, thánh Giuse vẫn đang tiếp tục sứ mạng của Ngài là bảo vệ thân thể nhiệm mầu của Chúa Cứu Thế là Giáo Hội.

Thánh Giuse, Đấng bảo trợ những tâm hồn dâng hiến

Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Ngài đã giữ gìn Đức Maria. Ngài cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Chính phải góp phần vào mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập Thể mà ông Giuse và bà Maria đã lãnh nhận ơn thánh để họ vừa sống đặc sủng trinh khiết vừa sống hồng ân hôn nhân đích thực.”

Và để giải thích việc đính hôn này, các giáo phụ cho rằng lý do có cuộc đính hôn giữa Đức Maria và Thánh Giuse như là để tránh sự phiền phức do phong tục tập quán gây nên đối với những người chưa lập gia đình. Và rất có thể, trước khi kết hôn, hai người đã thỏa thuận với nhau sống trinh khiết trọn đời mà vẫn sống đời hôn nhân.

Như vậy, Thánh Giuse không những giữ mình trinh khiết mà còn giúp Đức Maria thực hiện lời thề hứa sống đồng trinh trọn đời. Cả hai được mọi người ví như những cành huệ trinh khiết thơm ngát hương hoa. Do đó, từ lâu Giáo Hội đã ca tụng Thánh Giuse là gương mẫu và là đấng gìn giữ các kẻ đồng trinh.

Mừng kính Thánh Cả Giuse, cũng là dịp để chúng ta tuyên xưng lòng nhân lành Chúa đã tuyển chọn và ưu ái đặt thánh Giuse là cha nuôi Chúa Giêsu, và là Đấng bảo trợ cho Giáo Hội, cho những tâm hồn dâng hiến và cho mỗi chúng ta.

Trên toà Chúa, giờ này, Ngài đang hướng nhìn xuống đoàn con cái với tình yêu thương nồng thắm, nhất là khi thấy chúng ta, hằng ngày phải vất vả chèo chống với bao sóng gió khó khăn để bảo vệ con thuyền gia đình, bảo vệ đời sống dâng hiến, bảo vệ những tâm hồn trong trắng khỏi bị dập vùi và tan nát trước bao cơn sóng của vật chất, kiêu ngạo, dục vọng, đam mệ, ích kỷ, khoái lạc…

Hãy đến cùng Thánh Giuse

Trong mọi tình huống của cuộc đời, chúng ta hãy chạy đến cùng thánh cả Giuse để van xin Ngài cứu giúp, nâng đỡ, chở che và bảo vệ, giúp chúng ta vượt mọi gian nguy của cuộc đời, thoát khỏi những cảm bẫy của thời đại.

Trong sách Sáng Thế có kể chuyện Tổ Phụ Giuse trong hoàn cảnh đói khổ mất mùa của toàn dân, nhà vua Ai-cập đã bảo với thần dân của mình: ”Hãy đến với ông Giuse, người dạy sao, hãy làm như vậy”. Và từ đó, “hằng ngày ông Giuse đã mở công lẫm để phân phát thực phẩm cho dân”.[1]

Hôm nay, chúng ta cũng nhìn nhận hình ảnh Tổ Phụ ấy nơi Thánh Cả Giuse để đến với Ngài. Thiên Chúa như thể muốn nhắc bảo chúng ta: ”Hãy đến với Thánh Giuse, Người dạy sao hãy làm như vậy”.

Thánh Têrêxa thành Avila đã tâm sự: “Chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng Thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh Cả vinh phúc này”.

Thánh nữ tha thiết mời gọi tất cả những ai không tin hoặc chưa tin, hãy thử mà cậy nhờ, hãy thử cầu khẩn Thánh Cả Giuse vinh hiển, thì đoan chắc không có ơn nào mà ngài lại từ chối !

Lạy Chúa, vì công nghiệp và lời chuyển cầu của thánh cả Giuse, xin Chúa luôn gìn giữ Giáo Hội được bình an và thoát khỏi mọi gian nguy trần gian. Xin Chúa luôn nâng đỡ và bảo vệ những tâm hồn sống đời thánh hiến, xin cho họ biết nhìn lên mẫu gương khiêm tốn và trung thành của thánh Giuse để trọn niềm dấn thân trong niềm tín thác, quảng đại phụng sự Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Xin Chúa luôn bảo vệ và gìn giữ họ giữa thế giới tục hoá này.

Lạy thánh cả Giuse là Đấng bảo vệ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến xin cầu cho chúng con. Amen.

 

 

Lm. Petrus Tá Đương, OP

 

 

3.   NOI GƯƠNG NHÂN ĐỨC THÁNH GIUSE

Pm. Phạm Huy Hoàng

Tháng 3 về, chúng ta cùng tạ ơn Thánh Giuse là Đấng bảo trợ mỗi gia trưởng chúng ta trong thời gian qua, và còn sẽ bảo trợ chúng ta trong suốt cuộc đời làm chồng, làm cha, làm ông nội, ông ngoại.

Tỏ lòng tri ân ấy, Chúa không muốn chúng ta chỉ nói lên bằng lời, mà còn phải nói lên bằng cuộc sống gia trưởng theo mẫu gương gia trưởng nhân đức của Ngài. Vì thế, suy niệm về những ngày đời thánh thiện của Thánh Giuse, làm bài học quí giá cho mỗi gia trưởng là thật cần thiết.

Đón nhận nhau trong đức tin

Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse cộng tác vào chương trình cứu chuộc, chương trình mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, nên có thể nói, người được Thiên Chúa chọn hẳn phải là một người đủ phẩm cách đẹp lòng Thiên Chúa. Và điều đẹp lòng Chúa nhất là Tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa.

Quả thật, nếu đức tin của Mẹ Maria được thể hiện bằng sự khiêm tốn và vâng phục để Thiên Chúa thực hiện mầu nhiệm nhập thể: “Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời sứ thần truyền. Xin hãy thành sự trong tôi, như Lời Ngài đã phán”,  thì Thánh Giuse âm thầm không nói gì, không trả lời gì, mà Ngài chỉ làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà: ‘Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần’. Điều Thánh Giuse đã làm là một câu trả lời  “vâng phục” bằng “đức tin” hùng hồn nhất (x. Rm 1,5; 16,26; 2Cr 10,5-6).

Thế thì, Lời chúc của Elizabet dành cho Mẹ Maria “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45) cũng chính là lời mà mọi miệng lưỡi  phải chúc tụng Thánh Giuse như vậy.

Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đón nhận và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa là đón nhận nhau, và cả hai cùng đón nhận Phôi Thai Đấng Cứu Thế bằng một đức tin. Từ đó, làm thành một cộng đoàn mới của Thiên Chúa, trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Việc thánh Giuse đón Đức Maria về làm vợ trong lúc Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, quả là một gương đức tin hùng hồn vào Thiên Chúa quyền năng: Thiên Chúa chọn cho Giuse một người vợ. Thiên Chúa chọn cho Maria một người chồng. Thiên Chúa chọn cho Đấng Cứu Thế những người làm Cha Mẹ. Vì quả thực, nếu để tự Giuse chọn, có lẽ Giuse không chọn Maria, vì ngại những tiếng đời dị nghị. Nhưng việc ấy không xảy ra theo ý của Giuse, mà đã xảy ra ngược lại theo ý của Thiên Chúa.

Còn chúng ta, có tin rằng Thiên Chúa đã tham gia vào việc chọn lựa của mình không? Có nhiều người đã sống với nhau bao nhiêu năm rồi, mới ngộ ra là có bàn tay Thiên Chúa định liệu cho việc của Chúa nơi gia đình mình. Có nhiều người cho là chuyện ông trời xe định, nồi nào vung nấy. Nhưng thiết tưởng đức tin công giáo đòi hỏi chúng ta phải xác tín ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân rằng Thiên Chúa tham dự vào việc tuyển chọn cho mình một người bạn đời theo ý Chúa. Và từ ấy, cuộc sống của vợ chồng trải ra trong sự quan phòng của Thiên Chúa, để tiếp tục công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa và tiếp tục thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Chỉ trong đức tin, cuộc sống của hôn nhân mới có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách và bền vững cho đến cùng.

Như vậy, việc đón nhận nhau trong đức tin là bài học trước tiên của đời sống gia đình công giáo. Đón nhận một người bạn đời về chung sống với nhau nên nghĩa vợ chồng, đón nhận con cái Chúa ban trong ánh sáng đức tin, có thể nói là đón nhận tình yêu Thiên Chúa, hồng ân của Thiên Chúa nhằm đến việc thực hiện chương trình mạc khải của Thiên Chúa nơi gia đình là: Tình yêu và cứu độ.

Nhìn lại đời sống gia đình chúng ta, mỗi người có thể suy xét lại và trả lời trước mặt Chúa, rằng ngày ấy con yêu nàng, con cưới nàng làm vợ, có phải vì Đức Tin là để có một gia đình nhằm thực hiện chương trình của Chúa, hay có một gia đình thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta đã đón nhận nhau vì Chúa hay vì ta? để sống cho Thiên Chúa hay cho chúng ta?

Thánh thiện trong đức cậy

Mẹ Maria đã tin tưởng và ký thác toàn thân mình cho Thiên Chúa để Ngài thực hiện ơn cứu độ, thì thánh Giuse cũng cậy trông hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa để vượt thắng những nguy cơ làm mất đi vẻ đẹp tinh tuyền thánh thiện của gia đình Con Thiên Chúa. Việc giữ đức khiết tịnh cho mình và cho người bạn đời, thiết tưởng phải việc ưu tiên hơn cả. Bởi vì thánh ý của Thiên Chúa đã khởi đầu bằng việc Con Thiên Chúa làm người trong lòng một trinh nữ. Và trinh nữ ấy đã khấn nguyện giữ mình đồng trinh đến trọn đời. Như thế, đời sống gia đình của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Con Thiên Chúa phải là một đời sống tinh tuyền tuyệt đối nơi cả ba con người.

Với loài người, thì không thể, nhưng với Thiên Chúa thì việc gì cũng có thể. Và chúng ta tin rằng, đức cậy trông nơi Thánh Giuse phải là tuyệt hảo. Chính vì đức trông cậy và nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa, mà Thánh Giuse vượt thắng những yếu hèn của đời người, gìn giữ được đức công chính, vẻ đẹp nguyên tuyền của mình trong trắng thanh cao như nhành huệ, đồng thời bảo bọc được sự đồng trinh trọn đời của người bạn đời chí thiết.

Hình ảnh người con mà đức tin cho biết là “Con Thiên Chúa” trong gia đình, có thể nói là yếu tố quan trọng vào bậc nhất trong việc hình thành đức cậy trông nơi Thánh Giuse. Người “con làm việc của Cha trên trời” và “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan” là hoa trái của đức cậy trông mà Thánh Giuse đã miệt mài ký thác.

Gia đình chúng ta hôm nay quên nhắm đến hạnh phúc do sự công chính, thánh thiện mang lại, mà chỉ nhắm đến hạnh phúc do những giá trị trần thế ban phát cho. Thật đáng trách cho mỗi gia trưởng chúng ta, khi không hướng gia đình đến đời sống thánh thiện thuần khiết, lại còn vướng vào những trào lưu tục hóa làm mất đi vẻ thánh thiện nguyên tuyền của hôn nhân công giáo. Thêm vào đó, lại không hướng niềm cậy trông vào Chúa mà lại đặt hy vọng nơi những thực tại hão huyền.

Chu toàn trách nhiệm trong đức mến

Hoa trái của Đức tin là đức mến. Đức Mến thôi thúc thánh Giuse chu toàn vai trò làm chồng làm cha trong gia đình. Từ việc đưa vợ về làm sổ bộ, lo cho vợ sinh nở, đưa vợ con trốn sang Ai cập, hồi cư, cắt bì và đặt tên cho con, dâng con vào đền thờ, tìm con khi lạc mất, cùng vợ con kiếm có cái ăn cái mặc… tất cả đều được thể hiện với tình yêu mến.

Chúa Giêsu lớn lên và trưởng thành mặt nhân tính trong cung lòng Mẹ Maria, thực ra trong trái tim yêu thương của Mẹ Maria và trong tấm lòng từ ái của Cha Thánh Giuse. Cả hai đầy tình yêu thương và tính trách nhiệm.

Tình thương đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa, và cụ thể nơi vợ chồng Maria, Giuse: Tình thương đó là hy sinh cho người mình yêu được hạnh phúc. Sự hy sinh ấy bao gồm cả tự do, ý chí, sự sống, thời gian và tất cả những gì tưởng như mình phải được, cũng bằng lòng mất đi. Sự hy sinh ấy được thể hiện với lòng khiêm cung, lịch sự, khoan dung, nhẫn nại. Và sự hy sinh ấy chính là nét họa bản tính của Thiên Chúa trong tâm hồn mỗi con người có lòng yêu mến Ngài.

Cả Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đều đã thắm đẫm tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu nhau bằng tình yêu của Thiên Chúa, nên việc chu toàn trách nhiệm với đứa con được sinh ra cũng chính là chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa giao phó trong nhiệm cuộc của Ngài.

Tình mến không vị kỷ. Tình mến không huênh hoang. Tình mến không nóng nảy…. là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến chứa chan sự công chính thánh thiện, tràn đầy niềm hân hoan, vẻ dịu dàng, nét khiêm tốn là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến ấy phải là tình mến chuẩn mực cho các gia trưởng hôm nay.

Nghĩ về mình, có thể có đôi người trong chúng ta đang được niềm vui mừng vì đã theo gương nhân đức của Thánh Giuse trong đời sống gia đình, nhưng thiết tưởng, đa số trong chúng ta chưa chọn lấy tình mến chuẩn mực của Ngài làm tiêu chí sống đời vợ chồng gia đình. Thật đáng tiếc.

Tháng 3 lại về, tháng kính Thánh Giuse, cho chúng ta một cơ hội nhìn vào gương sống của thánh quan thầy các gia trưởng mà suy nghĩ về:

–      mầu nhiệm gia đình, trước tiên, phải xác tín gia đình là một mầu nhiệm trong nhiệm cuộc sáng tạo và cứu rỗi nhân loại.

–      đức tin của chúng ta, Đức tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng, đã chọn lựa và chỉ định cho chúng ta người bạn đời, để  sống với nhau mà thực hiện thánh ý Chúa.

–      đức trông cậy của chúng ta, đức trông cậy duy nhất nơi sức mạnh của Thiên Chúa mới giúp chúng ta sống công chính thánh thiện và bình an hạnh phúc.

–      đức mến của chúng ta, đức mến phải được mặc lấy lòng khoan dung từ bi nhân hậu của Thiên Chúa mà chu toàn bổn phận Chúa giao phó trong sứ mệnh sáng tạo và cứu rỗi ngay trong chính gia đình mình.

Nguyện xin Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp cho mỗi gia trưởng chúng con biết noi gương nhân đức Ngài, mà thăng hoa cuộc lữ hành trần thế của chúng con trên đường công chính.

 

 

 

Pm. Phạm Huy Hoàng

 

 

4.   GIUSE KHIẾT TỊNH

Lm. Vinh Sơn Đinh Minh Thoả

Con số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo. Kinh Lạy Cha có 7 lời cầu xin; phép lạ hóa bánh ra nhiều còn dư 7 thúng, Chúa Thánh Thần ban bảy ơn. Trong Tin Mừng Mátthêu, tên Giuse xuất hiện 7 lần, cho thấy vai trò của ngài rất quan trọng; nhưng lối sống âm thầm của ngài lại cho chúng ta sự chú ý. 

Thánh Giuse làm chủ trong lời ăn tiếng nói. Ta không hề thấy một lời nào của ngài. Trong Tin Mừng, ngài rất thinh lặng. Vì vậy, nếu ngài im lặng, thì đây không phải là tình trạng lặng thinh, cũng không phải là hờn dỗi, cũng không phải vì ngài ít nói. Ngài thinh lặng để lắng nghe. 
Trước tiên vì ngài là mẫu mực cho sự vâng phục của đức tin. 

Ngài biết rằng vâng phục để lắng nghe cho tỏ tường. Từ đó, sự thinh lặng, việc giữ gìn ý tứ và những lời ăn tiếng nói hiếm thấy nơi ngài: ngài phải thế để lắng nghe, đó là mở tai lòng mình ra. Khi Thiên Chúa gọi, ngài trả lời ngay, nhưng theo cách của ngài. Khi ngài nghe Thiên Chúa nói: Giuse, đừng sợ đón nhận… Chúa Thánh Thần, Phúc Âm không hề nói gì đến lời của ngài nhưng nói đến thái độ: Giuse làm như Thiên Thần Chúa dạy. 

Suốt cả đời sống của ngài diễn ra như thế: chỉ cần Thiên Chúa bảo “đứng dậy” và ngài đứng dậy, không một lời nói. Giuse là người không chậm trễ, thẳng thừng, không nhiều lời, làm theo ý Chúa. Ôi! mong sao thế giới được tốt đẹp nếu tất cả mọi người (hay ít ra là các Kitô hữu) đáp lại ý Chúa như Giuse đã làm… 

THÁNH GIUSE LÀM CHỦ THÂN XÁC 

…. đặc biệt là về tính dục. 

Vì ngài đã tin vào Thiên Chúa, ngài đón Maria về nhà. Ngài đón nhận cô vì cô là người nữ trinh khiết và đang có thai. 
Vì ngài đã nghe Thiên Chúa, ngài hiến dâng ơn gọi của mình với tư cách là một con người hoàn toàn là hợp pháp. 
Ngài chấp nhận tránh nhiệm và gáng nặng của một gia đình, nhưng từ chối tình yêu hôn nhân tự nhiên. Tình yêu này làm sinh sôi và làm cho gia đình lớn lên. 
Giuse là bậc thầy về đức khiết tịnh, một đức tính cao đẹp mở ra một tình yêu chân thật, dù sống đời hôn nhân hay độc thân, sống tu trì hay gia đình. 

Hậu quả đầu tiên của tội nguyên tổ là đánh mất sự tự chủ thiêng liêng, không làm chủ được thân xác chúng ta nữa. Tinh thần thì mạnh mẽ, nhưng thân xác thì yếu đuối….. 
Vì vậy, khi thân xác chỉ sống cho mình, thân thể bị trao nộp cho chính nó, nó sẽ bằng lòng đi theo những qui luật của thú vật. 

Khi lắng nghe Thiên Chúa, thánh Giuse đã tìm thấy con đường duy nhất cho sự sống trong sự khiết tịnh và khiêm tốn. Trong xưởng mộc Nadarét, khi làm việc trong thinh lặng, ngài đã hợp nhất con người của ngài cách sâu xa. Đời sống của ngài sẽ mặn mà hơn muối, hơn vẻ đẹp và niềm vui mà ngài muốn đạt được theo ý của mình. 

Tên bạo chúa kiêu căng nói: “Ta làm chủ bản thân cũng như làm chủ vũ trụ”. Còn Thánh Giuse thì nói: “Tôi làm chủ bản thân bởi vì Thiên Chúa là vị thầy duy nhất của tôi”. 

 

 

Lm. Vinh Sơn Đinh Minh Thoả

 

5.   THÁNH GIUSE; NGƯỜI CÔNG CHÍNH

Lm. Giuse Hoàn Kim Toan

 

Người công chính, là  người cần thiết để xây dựng công bằng và  chân lý, tình yêu trên thế giới. Những đức tính của người công chính không những điểm tô nhân cách của mình còn là một bảo đảm cho hậu duệ  và thành trì vững chắc bảo vệ an bình, đồng thời là nền móng cho thế giới không bị lay chuyển. 

Thánh Giuse được giới thiệu là Đấng Công Chính, dựa trên những nét tiêu biểu. Công bằng, vị tha, tình yêu

Công bằng:

Công bằng không chỉ là trả cho mỗi người những gì thuộc về người đó, theo cách hiểu của cụm từ “dare cuique suum” mà còn là thái độ trách nhiệm sống tình yêu với người khác.

Đối với Thánh Giuse, được Thánh Kinh giới thiệu là bác thợ mộc. Thời đó gọi là thợ mộc bao gồm cả những người sửa chữa vặt những đồ dùng trong gia đình bị hư gãy. Thánh Giuse chấp nhận là một người thợ sửa chữa vụn vặt ấy. Vấn đề không thuộc về tay nghề cao thấp, xứng với đồng lương lãnh. Vấn đề nghề nghiệp của Thánh Giuse lựa chọn là phục vụ những con người nghèo trong xã hội, chính họ chứ không ai khác phải sửa chữa những gì vặt vãnh, nếu giàu có họ đã thay thế cái hư thành cái tốt hơn. Xã hội của những người nghèo chỉ đủ trả cho những người thợ chấp nhận nghèo như họ để làm những công việc nhiều hơn đồng lương được lãnh. Sống nghèo với người nghèo là tái lập sự công bằng giữa những người nghèo đang chịu sự bóc lột bởi giới giàu có. Đó là lối sống lên tiếng mời gọi trả lại công bằng cho mọi người được sống, không phải để hưởng những gì mình có mà trả lại đúng nghĩa công bằng cho mọi phẩm giá của con người được tôn trọng. Không giống như những trào lưu của những cao bồi nghĩa hiệp được người ta ca tụng, chiếm lấy của người giàu để chia cho người nghèo. Sống công bằng theo Thánh Giuse là cách lựa chọn sống nghèo để thông chia với người nghèo trong những khả năng đã được nhận lãnh, thể hiện đời sống Tin Mừng một cách trung thành: “Anh em đã nhận một cách nhưng không hãy cho đi một cách nhưng không” (Mt 10, 8).

 
Thánh Giuse trong cách sống công bằng, chấp nhận cuộc sống đơn nghèo của mình để sẻ chia. Có thể thấy trong đời sống tự nguyện nghèo khó, một tâm hồn đã tôi luyện khỏi những ích kỷ, cái tôi, biện luận cho lối sống gây bất công. Cội rễ của bất công nằm trong tâm khảm của mỗi người khi “muốn ở trên và đối kháng với người khác” (Sứ Điệp Mùa Chay 2010, Benedicto XVI). Đón nhận tự nguyện đời sống nghèo khó để cùng với người nghèo khó xây dựng đời sống bảo vệ cho phẩm giá cao quý của con người, đó là chứng nhân cho công bằng giữa những bất công. 

Vị tha:

Ra khỏi cái tôi để hướng về người khác vì họ là “hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (St 1, 27). Trước hết để tách mình ra khỏi cái tôi “ích kỷ”, là hướng về Thiên Chúa, chỉ khi quy hướng về Thiên Chúa mới có thể thắng được cái tôi của mình. Ra khỏi là biến cố xuất hành của từng cá nhân, nghe Lời của Thiên Chúa ra khỏi chính mình và để thực hiện đời mình theo ý Chúa. 

Thánh Giuse cho thấy điểm quan trọng đó trong đời sống ra khỏi chính mình mà Thánh Kinh thuật lại: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1, 19 – 21). Quy chiếu cuộc đời của mình với ý muốn của Thiên Chúa, dẹp bỏ những dự định ước mơ của mình để ý muốn Thiên Chúa thực hiện. Ý muốn của Thiên Chúa bao giờ cũng là ý muốn hoàn hảo, không những cho cá nhân mà còn cho toàn thể nhân loại. Được xưng tụng là công chính, bởi vì Thánh Giuse đã thực hiện lời mời gọi “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đâng hoàn hảo” (Mt 5, 48), bằng cách thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

 
Có ra khỏi chính mình quy hướng về Thiên Chúa mới có thể là tác nhân xây dựng công bằng trên trái đất được. Cụ thể ý muốn của Thiên Chúa được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Nghe Lời Chúa và đem ra thực hành là ra khỏi chính mình, để có được đặt ở trên người khác thì cũng có cách thi hành: “trở thành người phục vụ” (Mt 23, 11), loại trừ được tính đối kháng mà sống với nhau như anh chị em con một Cha trên trời.

  
Thánh Giuse, trong đời sống phục vụ chẳng thấy một lời lẽ nào được ghi lại. Phục vụ không phải là để tên tuổi mình được rạng danh mà để Danh Thiên Chúa hiển trị. Đó là mẫu gương đích thực cho đời sống phục vụ trong khiêm tốn và trong tình yêu.

 

 

Tình Yêu:

Đón nhận ý muốn của Thiên Chúa để thực hiện trong cuộc đời mình là thực hiện đời sống trong Tình Yêu. 
Thánh Giuse, đón nhận ý muốn Thiên Chúa nhờ mặc khải về con trẻ sẽ được đặt tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ dân Người. Đón nhận nên như khí cụ Thiên Chúa dùng thực thi công trình cứu độ. Thánh Giuse cũng như những người Do Thái mộ mến Thiên Chúa khác đã hiểu cụ thể rằng: Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa giải thoát. Điều đó Chúa đã thực hiện với dân của Người khi đưa họ ra khỏi tình trạng nô lệ tại Ai Cập. Từ minh chứng cụ thể đó, dân Do Thái hiểu thêm, Thiên Chúa yêu thương cũng là Thiên Chúa đã giải thoát nhân loại khỏi hư vô mà tạo dựng nên con người. Giải thoát vượt xa tầm hiểu biết của con người “từ không đến có” và từ “tội lỗi đến chỗ tinh tuyền”. Nhờ vào đời sống kinh nghiệm về lòng yêu thương của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã tự nguyện hiến dâng của lể chính cuộc đời của Ngài trở thành công cụ cho Giải Thoát.

 
Thánh Giuse, người công chính cũng chính trong điểm son này. Sống cuộc đời trở thành của lễ hiến dâng, cho Thiên Chúa và cho nhiều người. Cuộc sống không còn sống cho chính mình nữa mà là sống trong Thiên Chúa. Tình yêu không còn mang tính cá nhân nữa mà mang chiều kích Toàn Thể. Chỉ trong Đấng là cội nguồn mọi sự, cá nhân mỗi người mới được thực hiện trong Chúa Giêsu “trở nên tất cả cho mọi người, để cứu sống nhiều người” (1 Cor 9, 22). 

Sống tình yêu là cách sống đưa nhiều người về với Thiên Chúa, để chính Thiên Chúa giải thoát họ, đó là cách sống công bình trong Tình Yêu. Trả lại lẽ đúng cho con người, mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương. 

Xin Thánh Giuse cầu bầu cho chúng con trong cuộc đời trần thế này, theo gương Ngài sống đáp lại Lời Chúa mời gọi: “Nên hoàn hảo”, thực thi đời sống trong kinh nghiệm giải thoát để ra khỏi chính mình và sống kết hiệp với Tình Yêu Chúa để nên mọi sự cho mọi người. 

 

Lm. Giuse Hoàn Kim Toan

 

6.   THÁNH GIUSE; MẪU GƯƠNG CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

Quang Huyền, ofm

 

Hằng năm Giáo hội dành riêng tháng 3 để tôn kính Thánh Giuse và mời gọi các Kitô hữu chiêm ngưỡng và học hỏi gương thánh nhân. Chúng ta đang sống trong tâm tình của Năm Thánh Linh Mục, việc tôn kính này lại mang nhiều ý nghĩa hơn, hầu giúp cho mọi người noi gương thánh nhân để sống sứ mạng làm con cái Chúa và anh chị em với nhau và với thụ tạo ngày một hoàn thiện hơn.

 
Các trang sách Tin Mừng ít ỏi đề cập đến thánh Giuse không hề thuật lại cho chúng ta một lời nào của thánh nhân. Cuộc đời của thánh Giuse là một tình yêu thầm lặng. Nhưng những gì ngài đã sống, đã thực hiện trong vai trò một “người tôi trung” của Thiên Chúa, một người cha, một người chồng trong Gia đình Nazarét, cũng đủ toát lên một mẫu gương thánh thiện và công chính nơi ngài. Trong bài suy niệm này, ch1ung ta cùng chiêm ngưỡng thánh Giuse như là “mẫu gương của đời sống thánh hiến”. 

Theo quan điểm thần học hiện đại, thì đời sống tu trì hay thánh hiến là bước theo dấu chân của Đức Kitô sát hơn, hầu sống Giao Ước tình yêu với Thiên Chúa. Việc dấn thân quyết liệt của người tu sĩ được diễn tả trong lời tuyên khấn quen thuộc: “Tôi tuyên khấn cùng Thiên Chúa, giữ đức Vâng phục, Khó nghèo và Khiết tịnh”. Nghóa laø yeâu meán Thieân Chuùa vaø con ngöôøi: heát loøng “Khieát tònh”, heát linh hoàn “Vaâng phuïc”, heát söùc mình “Ngheøo khoù”. (x. J.C. Garcia Paredes, Đời tu, các lời khuyên Phúc Âm, Đỗ Ngọc Bảo chuyển ngữ, 2007, tr 53). Đây cũng chính là những gì mà thánh Giuse đã sống một cách sung mãn trước khi đời sống thánh hiến xuất hiện trong Giáo hội.

 
Thánh Giuse sống vâng phục

Trong Tin Mừng Matthêu 1,19-20, thánh Giuse được trình bày như một người “công chính”. Theo ý hướng của Tin Mừng thứ nhất thì từ “công chính” ở đây được hiểu là lòng đạo đức được xây trên việc hoàn toàn trung thành với Lề luật. Thực vậy, khi đọc lại các trình thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy thánh Giuse là người luôn luôn lắng nghe và luôn luôn đáp trả thánh ý Thiên Chúa, dù cho đó là những điều mà Ngài không mong đợi. Chẳng hạn trong việc thánh nhân, đang thắc mắc về sự mang thai của Maria, và ngài đã định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo. Nhưng ngay sau đó, thánh Giuse đã nghe lời sứ thần báo tin và mau mắn đón Maria về nhà mình. Rồi trong việc đem Chúa Giêsu và Mẹ Maria trốn sang Ai Cập và trở về Nazarét, ngài cũng cùng một sự vâng phục mau mắn như thế. Có lẽ hơn 30 năm trong mái nhà Nazarét ngài cũng luôn lắng nghe thánh ý Chúa và đáp trả một cách trung thành qua việc gìn giữ và bảo vệ Đức Maria và Chúa Giêsu, nhất là trong việc nuôi dưỡng và giáo dục Hài Nhi Giêsu. 

Sự vâng phục của thánh Giuse trước thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa cũng như lời thưa “fiát” của Đức Maria đã phần nào thấm nhập vào đời sống kinh nguyện và lời rao giảng của Đức Giêsu sau này. Chúa Giêsu đã từng có một quyết định thể hiện sự vâng phục triệt để thánh ý Chúa Cha trong lúc Ngài đau khổ, cảm thấy bị xao xuyến, bị bỏ rơi trong Vườn dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.”(Mt 26,40). Thư Do thái cũng đã diễn tả rất hay sự vâng phục của Chúa Giêsu: “Dẫu là Con Thiên Chúa, Ngài cũng đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 6,8). 

Tinh thần vâng phục của thánh Giuse, đươc thể hiện trong lời khấn vâng phục của người tu sĩ hôm nay. Điều này Công đồng Vaticanô II tái khẳng định: “Nhờ khấn giữ đức vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn của mình như của lễ bản thân dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó họ được kết hợp với ý muốn cứu rỗi của Ngài cách kiên trì và chắc chắn hơn” (Perfectae Caritatis, số 14). 

Tóm lại, Đời sống vâng phục của Thánh Giuse là sống cho Thiên Chúa, và hiến dâng cuộc đời cho tình yêu và đức ái trọn hảo mà không so đo hơn thiệt. Ngài đã chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa và đặt niềm tin nơi một mình Thiên Chúa. Chính nhờ sự tuân phục này mà kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện và hậu quả của nó hẳn sẽ làm cho đời sống của thánh Giuse thêm phong phú và hoàn thiện hơn, đồng thời nó cũng mở ra với những chiều kích khác của cuộc sống tròn đầy. 

Thánh Giuse sống khó nghèo

Nhìn vào cuộc sống của gia đình Nazarét, chúng ta thấy thánh Giuse đã sống một cuộc sống khó nghèo về vật chất và tinh thần cùng với Mẹ Maria và Chúa Giêsu. 

Thực vậy, Chúa Giêsu không chọn cho mình một người cha giàu có, nhưng Ngài đã chọn thánh Giuse một người thợ mộc nghèo, dân dã. Cảnh nghèo này được thánh Luca mô tả qua trình thuật Giáng Sinh. Ở Bêlem thánh Giuse không có đủ tiền để thuê phòng trọ cho Đức Maria, khi Mẹ đến giờ mãn nguyệt khai hoa. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải sinh ra ở một nơi nào đó, bên vệ đường, nơi máng cỏ, trong gió sương vào mùa đông năm ấy. Và có lẽ những năm tháng nơi ngôi làng Nazarét, gia đình Thánh gia đã sống một cuộc sống thanh bần và lam lũ như bao người dân bình dân khác. Ơ đó, thánh Giuse đã phải hy sinh lao nhọc để đủ lương thực cho mẹ Maria và Chúa Giêsu. Là một người công chính, chắc ngài cùng với Mẹ Maria cũng đã chia sẻ một cách quãng đại cho những người nghèo khổ hơn mình. Điều mà sau này Chúa Giêsu nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận”. Một cuộc sống thành bần “đói cho sạch, rách cho thơn” này đã ăn sâu vào trong lối sống của Đức Giêsu: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng con người không có chỗ gối đầu” (Lc 9, 58). 

Nhưng điều đáng bàn hơn vẫn là cuộc sống khó nghèo tinh thần của thánh Giuse. Ngài đã chấp nhận từ bỏ tất cả những kế hoạch riêng tư của cuộc đời, để đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa, hiến thân phục vụ chương trình cứu độ của Ngài. Giá trị của khó nghèo nơi cuộc đời thánh Giuse là vâng Ý Chúa, sẵn sàng quên mình vì Chúa và người khác qua sự sẻ chia cuộc sốngi, những ưu tư, những vui buồn với Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Nhờ thế, Ngài trở nên người giàu có về niềm vui, niềm hạnh phúc. Đời sống khó nghèo của thánh Giuse thể hiện một đời sống khó nghèo triệt để của Tin Mừng mà Chúa Giêsu sẽ rao giảng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ” (Mt 5,3). 
Sư khó nghèo tuyệt thánh mà thánh Giuse đã sống được thể hiện nơi lối sống của Đức Kitô từ hơn hai nghìn năm trước, nay lại được đông đảo Kitô hữu bắt chước và noi theo. Điều đó thể hiện rõ trong giáo huấn của Công đồng Vaticanô II: “Nghèo khó tuyên xưng rằng Thiên Chúa là tài sản duy nhất và chân thật của con người. Được sống theo gương Đức Kitô, Đấng vốn “giàu sang phú quý đã tự trở nên nghèo khó” (2Cr 8,9), lời khấn thánh bần trở thành biểu tượng của sự trao ban bản thân trọn vẹn mà Ba Ngôi đã trao ban cho nhau” ((Perfectae Caritatis, số 13). Thánh Phanxicô Assisi thời Trung cổ là người chọn sống khó nghèo triệt để theo tin Mừng, ngõ hầu trả lời cho thách đố rao giảng Đức Kitô khó nghèo trong một Giáo hội giàu sang và trần tục. Ngài là hiện thân của khó nghèo vui tươi và đã biến khó nghèo thành trung tâm của linh đạo. Tài liệu Chung kết của Tổng Tu nghị Dòng Phanxicô, năm 2009 cũng mời gọi các tu sĩ Phan sinh trở về nguồn để sống tinh thần khó nghèo triệt để này: “Chúng ta đừng quên rằng sự hèn mọn của chúng ta, lấy sự hèn mọm của Đức Kitô làm gương mẫu […], phải được diễn ra thành những chọn lựa can đảm: những chọn lựa đó đưa chúng ta đến chỗ “từ bỏ những địa vị trong xã hội và Giáo hội, để với sự quyết tâm hơn, chúng ta chọn sống chiều kích bờ biên của đời sống tu trì, và trãi nghiệm tình trạng bên lề xã hội như cốt lõi của căn tính Phan sinh chúng ta” (Những người mang quà tặng Tin Mừng, số 23). 

Đời sống khó nghèo của thánh Giuse được thể hiện qua Giáo huấn và cuộc đời của Chúa Giêsu và đến lượt những giá trị này trở thành gương mẫu cho người tu sĩ hôm nay. Đó là tiêu chuẩn giúp chúng ta có được đời sống nghèo khó thanh thoát và vui tươi, thoát ra khỏi những bịn rịn về tiền bạc vật chất, nhưng biết quãng đại sẻ chia cho người nghèo khổ. Hơn nữa, sống nghèo trong xã hội hôm nay là biết sống trung thực với những giá trị Tin Mừng và can đảm đi ngược dòng với những tiêu chuẩn, những mức thang giá trị của xã hội tiêu thụ (x. Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, tr 181). 

Thánh Giuse sống khiết tịnh

Nhìn vào các tượng thánh Giuse, chúng ta thấy ngài được phác hoạ như cụ già, râu tóc bạc phơ, một tay bế Chúa Giêsu, tay kia cầm một nhành huệ trắng. Có lẽ người ta muốn diễm tả sự đồng trinh của thánh Giuse như một bông huệ trắng trong, thuần khiết. Hơn nữa, qua đó người ta cũng muốn bênh vực cho sự đồng trinh của Đức Maria. Đây là một truyền thống đạo đức tốt đẹp, chúng ta không muốn phủ nhận nó. Nhưng trong thực tế chúng ta có thể tưởng tượng thánh Giuse là một thanh niên đẹp trai, đạo đức và khoẻ mạnh. Một người như thế mới có thể chăm lo cho đời sống của gia đình Nazarét, nhất là trong việc bảo vệ và giáo dục Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta lý giải thế nào về đời sống khiết tịnh của thánh Giuse trong khi ngài vẫn sống trong môi trường gia đình với vợ hiền và con ngoan như thế? 
Thánh Inhatiô thành Antiôkia cho rằng: “Ma quỷ không hề biết về sự trinh khiết, sự sinh con của của Đức Maria, cũng như về sự chết của Chúa, ba mầu nhiệm này hoàn toàn nằm trong bí mật của Thiên Chúa”. Cũng thể, ta có thể thêm một điều “Ma quỷ không hề biết về sự đồng trinh của thánh Giuse. Đây cũng là bí mật của Thiên Chúa”. Nhưng theo niềm tin truyền thống chúng ta biết được thánh Giuse có đời sống trinh khiết. 

Thánh Tôma Aqiunô đã lập luận rằng: Thánh Giuse được khỏi tội tổ tông từ lòng mẹ. Còn thánh Têrêxa tiến sĩ thì nối:”Thánh Giuse trong trắng tựa Thiên Thần, nên thiên Thần năng hiện đến cùng ông”. Trong kinh cầu thánh Giuse, giáo hội vẫn tuyên xưng ngài là “Quan thầy của các kẻ đồng trinh”. 

Thực tế, Giáo hội cũng chưa bao giờ định tín về sự đồng trinh của thánh Giuse, nhưng nếu chúng ta xét xem một vị tiền hô của Chúa là Gioan Tẩy giả với vinh dự giới thiệu Chúa Giêsu mà còn được Thiên Chúa chuẩn bị từ lâu trong chương trình của Ngài, để cho thánh nhân không vướng vấn tội lỗi, phương chi thánh Giuse là Cha nuôi Chúa Giêsu, người sẽ được bồng bế, che chở, nuôi dưỡng Chúa Cứu Thế và Mẹ thánh của Ngài? Chắc rằng Thiên Chúa đã chọn lựa cho con của mình một người cha tốt lành thánh thiện và trinh sạch. 

Theo quan niệm của một số tác giả ngày nay thì: Qua các biến cố Giáng sinh của Chúa Giêsu, các thiên thần ca hát, các Đạo sĩ đến thờ lạy, rồi khi dâng Chúa trong đền thờ, các ngôn sứ đã nói tiên tri về Ngài…hẳn Đức Maria và thánh Giuse đã hiểu ra rằng trong Chúa Giêsu sự phong phú của tình yêu hôn ước của các ngài đã tròn đầy vượt quá mọi niềm mơ ước nhân loại. Hơn nữa, chúng ta cũng phải cúi đầu trước quyền năng của Thiên Chúa, vì ngài đã thực hiện một cách kỳ diệu nơi tình yêu của thánh Giuse và Đức Maria. Để hôm nay, chúng ta luôn tin tưởng rằng “Đức Maria là Đấng trọn đời đồng trinh”, và chúng ta cũng có thể nói và tin như thế với trường hợp thánh Giuse, Cha nuôi Con Thiên Chúa. (x. Lucien Deiss, Giuse Maria Giêsu, tr 54-55). 

Với những ý kiến này, chúngg ta có thể nói tình yêu của thánh Giuse dành cho Đức Maria là một tình yêu trinh sạch, vẹn toàn và vượt lên trên mọi ham muốn của trần gian.. Và như thế nó trở nên lời tiên tri về tình yêu vĩnh cửu tồn tại trong vương quốc Phục Sinh. Một tình yêu không bao giờ biết đến nhục dục, nhưng chỉ biết đến những nụ hôn của ân sủng. Một tình yêu không bao giờ chiếm hữu người yêu cho riêng mình, nhưng chỉ là một sự hiến thân thuần tuý. Một tình yêu canh giữ mọi phong phú của khác biệt giới tính và biến đổi chúng thành những tặng ân của ân sủng. 

Thực vậy, đời sống khiết tịnh của thánh Giuse là mẫu mực của tình yêu cho đời sống thánh hiến hôm nay. Điều mà Chúa Giêsu đã nói “Ai hiểu được thì hiểu”. Một tình yêu hiến thân cho Thiên Chúa “bằng một con tim không chia sẻ”, để làm chứng cho Nước trời ở trần gian. 

Tóm lại, thánh Giuse mãi là gương mẫu của đời sống thánh hiến, ngài đã sống và tiên báo trước một lối sống theo các giá trị Tin Mừng, điều mà về sau Chúa Giêsu đã sống, đã rao giảng và mời gọi các môn đệ bước theo Ngài, để đạt đến sự trọn lành Phúc Âm. Chúng ta cũng là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta tin rằng Ngài cũng đã yêu thương và chọn gọi chúng ta làm môn đệ của Ngài. Và như thế, chúng ta cũng đang mang trên cuộc đời chúng ta sứ mạng trở thành dấu chỉ Nước Trời, dấu chỉ về niềm hy vọng Kitô giáo cho một thế giới trần tục hóa và con người đang chìm trong sự vô vọng và bế tắc. 

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Giuse, xin Chúa ban ơn, giúp sức cho mỗi người trong chúng ta biết không ngừng noi gương thánh Giuse và sống trung thành với những gì chúng ta đã cam kết trong bí tích Thánh tẩy và trong lời khấn hứa với Thiên Chúa, hầu làm cho đời sống của chúng ta luôn trổ sinh những bông hoa thánh thiện và lừng ngát hương thơn cho Chúa và anh chị em xung quang chúng ta.

 Quang Huyền, ofm

 

7.   NGÀI LÀ ĐẤNG CÔNG CHÍNH

  • Giuse Đinh Lập Liễm

 

  • GIUSE, VỊ THÁNH CẢ TRONG GIÁO HỘI

Hôm nay chúng ta hợp cùng toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ thánh cả Giuse. Chúng ta gọi Ngài là thánh cả vì chức vị cao cả của Ngài : Cha nuôi của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế.

 

Tuy là vị thánh cao cả nhưng Ngài lại sống hết sức khiêm tốn, âm  thầm và lặng lẽ. Tất cả Phúc âm chỉ thu gọn 12 câu viết về thánh Giuse, nhưng đều là những câu nói gián tiếp về Ngài.

 

Tất cả những gì chúng ta biết về Ngài đều ở Tin mừng theo thánh Matthêu và thánh Luca.  Tin mừng theo thánh Marcô chỉ có một câu ám chỉ. Còn Tin mừng theo thánh Gioan tuyệt nhiên không có câu nào nhắc đến Ngài.

 

Thánh Kinh không ghi lại một lời nói trực tiếp nào của thánh nhân. Ngài chỉ xuất hiện một vài lần cách mờ nhạt. Ngài sống ra sao, chết cách nào chẳng có bút tích nào ghi lại.  Cả đời Ngài chỉ sống âm thầm, khiêm tốn, cầu nguyện và lao động.  Hoàn toàn lo lắng phục vụ Chúa Giêsu và Đức Maria.  Có thể nói lẽ sống của Ngài, vinh dự của Ngài, niềm vui và hạnh phúc của Ngài  chính là chu toàn bổn phận Chúa Cha đã giao phó cho.

 

Giáo hội Phương Tây chính thức tôn kính thánh Giuse vào thế kỷ, 14,15.  Năm 1870, theo lời thỉnh cầu của hàng Giám mục thế giới đang tham dự công đồng Vatican I, Đức Giáo hoàng Piô IX đã long trọng công bố tôn phong thánh Giuse  làm quan thầy toàn thể Hội thánh vào ngày 19 tháng 3. Và từ đó, ngày 19/3 dương lịch  hàng năm trở thành lể  kính thánh Giuse, Bạn thanh sạch Đức Maria và quan thầy của Hội thánh. Đồng thời hôm nay cũng là lễ quan thầy của Giáo hội Việt nam chúng ta.

 

  • GIUSE, NGÀI LÀ ĐẤNG CÔNG CHÍNH.

Kinh Thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”(Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.

 

  • Theo nghĩa thông thường.

Từ “công chính” có nghìa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ.  Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.

 

Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung . Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế.  Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.

 

  • Theo nghĩa đạo đức.

Trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn  rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.

 

Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn.Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xẩy ra  chuyện gì đáng tiếc.  Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa.  Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.

 

III. VAI TRÒ CỦA THÁNH GIUSE

 

  • Ngài là một gia trưởng

Thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.

 

Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi.  Cả Ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ.  Người ta thường nói :”Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.

Việt nam chúng ta có câu :

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ,

Gian khổ cuộc đời không ai sánh bằng cha.

Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời.  Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình. Chỗ đứng của người cha trong gia đình thật là cần thiết đến nỗi người ta bảo :

Còn cha gót đỏ như son,

Mất cha, gọt mẹ gót con đen sì.

 

  • Ngài là Đấng Đấng Đồng Công

Trong công cuộc cứu chuộc nhân loại, vai trò của thánh Giuse thật là mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa.

 

Chúng ta có thể lý luận răng : Nếu Đức Maria có công sinh thành thì thánh Giuse cũng có công dưỡng dục, nghĩa là nuôi dạy Chúa Cứu Thế. Nếu Đức Maria được gọi là Đấng Đồng công cứu chuộc thì thánh Giuse cũng đóng góp một phần không nhỏ trong công cuộc cứu thế của Chúa Giêsu.

 

Tuy Hội thánh chưa bao giờ tuyên phong thánh Giuse là Đấng Đồng công cứu chuộc như Đức Maria, nhưng qua sự cộng tác của Ngài, chúng ta có thể tôn phong Ngài là Đấng Đồng công cứu chuộc sau Đức Maria.

 

Vì thế, thánh tiến sĩ Bênađô mới nói :”Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.

 

  • Ngài là đầy tớ trung thành

Nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay,  chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành.

 

Thánh Giuse biết mình chỉ là đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10). Ngài đặt mình trước Thiên Chúa như bông huệ ngoài đồng để Thiên Chúa nuôi dưỡng mặc đẹp cho Ngài (Lc 12,27), và để Thánh Thần Thiên Chúa qua Ngài dẫn dắt Hài nhi Giêsu và Đức Trinh nữ Maria theo ý của Thiên Chúa.

 

Bác thợ mộc Giuse, người đầy tớ vô dụng của Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa yêu mến :”Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Thánh Giuse là người bình thường như bao gia trưởng khác, nhưng luôn vâng ý Chúa, chấp nhận cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.

 

Như Đức Mẹ đã thưa  “XIN VÂNG” với Thiên Chúa, lời thưa “xin vâng” của thánh Giuse  được thể hiện qua  những biến cố chúng ta đọc thấy trong Tin mừng thời thơ ấu Chúa Giêsu.  Ngài luôn sẵn sàng bỏ ý riêng mình để làm theo ý muốn của Thiên Chúa qua những lần Thiên Chúa báo mộng. Qua đó, thánh nhân đã chu toàn vai trò của mình như một người làm cha làm chồng gương mẫu trong gia đình Nazareth.

 

  • Ngài có thần thế trước tòa Chúa

Ngày xưa, khi bên Ai cập xẩy ra nạn đói, dân chúng không có gì ăn, đã chạy đến cùng vua Pharaon xin cứu giúp. Nhà vua đã trả lời cho dân chúng :”Ite ad Joseph” : hãy đến cùng Giuse”, vì lúc đó ông Giuse đang giữ kho lương thực của nhà nước. Qua lời xin, ông đã ban phát lương thực cho dân chúng.

 

Ông Giuse ở bên Ai cập xưa chỉ là hình bóng thánh Giuse ngày nay.  Chúng ta đến xin Chúa điều gì, Ngài cũng bảo chúng ta :”Hãy đến cùng thánh Giuse”. Chúa sẽ dùng thánh Giuse mà ban phát cho chúng ta muôn vàn ơn.

 

Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa như vậy không phải tự con người của Ngài nhưng là vì ngày xưa, tuy là Cha nuôi của Chúa Giêsu mà Ngài đã vâng theo thánh ý Chúa như một tôi tớ trung thành, thì nay Chúa vẫn ban cho Ngài quyền thế cao cả như vậy.

 

Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói :”Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc nọ việc kia. Nhưng kinh nghiệm cho tôi biết rằng thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin nhưng ai không tin lời tôi thì hãy cứ thử mà xem”.

 

  • Giuse Đinh Lập Liễm

 

 

8.   THÁNH GIUSE, VỊ THÁNH TUYỆT VỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

 

Tháng thánh Giuse năm nay nằm trong mùa chay. Thực vui và hạnh phúc vì lúc nào trong đời sống của tôi cũng có thánh Giuse đồng hành. Suy nghĩ về thánh Giuse, một con người thinh lặng, trầm lắng, một con người hết mực làm theo ý Thiên Chúa. Điều ấy giúp tôi hiểu rõ hơn và mộ mến một Đấng Thánh cao cả, tuyệt vời, một vị thánh hay làm phép lạ và một vị thánh đã để lại mẫu gương khiêm nhượng và hiền lành.

Vâng, đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta thấy các thánh sử rất ít đề cập tới Ngài. Nếu không suy nghĩ và thiếu lòng tin, chúng ta sẽ khó hiểu về một Đấng Thánh cao cả, đã được Thiên Chúa chọn lựa làm bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria và là Cha nuôi của Chúa Giêsu.

Tôi luôn yêu mến, tôn kính thánh cả Giuse vì Người là Đấng có uy quyền, thần thế trước mặt Đức Giêsu Kitô và triều thần thánh trên trời. Tôi còn nhớ rất rõ lời của thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila viết: ” …Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng Thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bàu của Vị Thánh vinh phúc này “. Thánh Têrêsa Avila viết tiếp: ”Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Người với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Người, mà nhận mọi lời Người cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm “.

Thánh nữ Têrêsa Avila, một vị thánh có lòng sùng kính đặc biệt thánh cả Giuse. Thánh nữ cũng như thánh Bênađô, Bà đã nhìn thấy trong một thị kiến. Thánh Têrêsa Avila viết: ” Ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, tôi được xuất thần…Tôi được mặc một chiếc áo thật trắng và chói sáng. Thoạt đầu tôi không biết ai đã mặc cho tôi. Nhưng rồi, tôi thấy Đức Mẹ ở bên hữu và Cha tôi, Thánh Giuse, ở bên tả đã mặc cho tôi. Và tôi được nghe: từ đây tôi được rửa sạch mọi tội lỗi của tôi. Sau việc mặc áo, tôi cảm thấy đầy hạnh phúc và sung sướng, và tôi thấy Đức Mẹ cầm tay tôi và nói: ” Mẹ rất vui thích khi thấy Con tôn sùng Thánh Cả Giuse vinh hiển,. Tôi có thể tin rằng ý định lập dòng của tôi sẽ thành tựu. Chúa Kitô và Hai Đấng sẽ được tôn vinh “.

Riêng tôi, khi sống với người Dân tộc Kơho đã lâu, tôi luôn cảm nghiệm tình thương và sự can thiệp của Thánh Giuse. Sống với người Dân tộc là một niềm vui và hạnh phúc bởi vì theo tôi:” người Dân tộc rất chân thành, đơn sơ và chất phác, nói một cách dân dã hơn là người Dân tộc còn chân chất núi rừng dù rằng cuộc sống hôm nay với đà văn minh tiến bộ, họ đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, tấm lòng của họ vẫn luôn tốt đẹp. Họ đã theo Chúa thì tôn kính Chúa và nhiệt tâm với đạo. Tôi vẫn nói với họ về vai trò của Thánh Giuse và Đức Mẹ. Nhiều người Dân tộc có lòng sùng kính Hai Đấng một cách rất đặc biệt. Tôi luôn khuyên nhủ họ chạy đến với Thánh Giuse, xin Ngài an ủi, đỡ nâng trong mọi hoàn cảnh thuận cũng như nghịch. Người Dân tộc đã được rất nhiều ơn lạ và họ cũng như tôi luôn tin tưởng cậy trông Hai Đấng: Mẹ Maria và Thánh Giuse. Mùa nào, tháng nào kính Mẹ và kính Thánh Giuse, chúng tôi đều có những giờ, những giây phút cầu nguyện và lòng tôn kính đặc biệt “. Tôi còn nhớ, một hôm tôi đang ngồi đọc Kinh Nhật Tụng trong phòng, nhìn ra cửa sổ, tôi thấy một chị Dân tộc vai đeo một đứa con nhỏ và tay dắt một đứa khác đang đứng ngoài sân Nhà xứ, tôi làm dấu, gấp sách lại và ra gặp chị, tôi chào chị và hỏi chị:

–      Chị ở đâu tới đó ?

–      Chị chào tôi ( Niam să Bap – chào Cha ).

–      Tôi chào chị và nói:

–      Chị đi đâu đấy ?

–      Chị thưa: con xin Rửa tội cho con của con ( An dăn Bap rào tis oh ăn dê ).

–      Tôi hỏi: ” Sao chị sinh hai đứa gần nhau thế ? “.

–      Chị thưa: Chúa, Mẹ và Thánh Giuse cho.

–      Tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi chị nói tới cả Thánh Giuse và thán phục về đức tin của chị.

–      Tôi thầm cám ơn Chúa vì Ngài đã cho những người nhỏ bé, những người ít học, ít chữ biết Thánh Giuse.

–      Tôi mời chị vào nhà thờ, rồi tôi Rửa tội cho đứa con trai bé của chị mới sinh được hơn một tháng.

Trước ảnh Đức Mẹ Ban Ơn và Thánh Giuse, tôi đã tạ ơn hai Đấng và nói với chị cám ơn Mẹ và Thánh Giuse. Chị đã cúi đầu rất sốt sắng cầu nguyện tạ ơn Đức Mẹ và Thánh Giuse. Chị đã trao, đã dâng đứa con trai bé nhỏ cho Thánh Giuse. Tôi rất cảm động về thái độ, cử chỉ cung kính của chị dân tộc Kơho đối với Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse.

Tháng Thánh Giuse, người Dân tộc thường có thói quen hái bông rừng dâng kính Thánh Giuse. Hôm nay, tháng 3 đã đi được một nửa, mùa chay đã về, ngồi đây, tôi nghĩ lại những tháng ngày ở vùng truyền giáo Dân tộc Kơho. Tập tục, nhân sinh quan, vũ trụ quan của họ như: Ù dùl kơnắc ( đất một cục ). Rắc dùl nơm rơsòn ( chim một tổ ). Tê kăc kòe ( tay suốt lúa ). Yơng lot gùng ( chân để đi ) bơr rắc Yàng, dơschờ ( miệng để cầu nguyện, để hát ) vv…giúp tôi càng hiểu người Dân tộc hơn.

Trong niềm vui mừng kính Thánh Giuse, một Đấng Thánh tuyệt vời, một Đấng Thánh hay làm phép lạ, luôn truyền lệnh hơn là van xin ( lời Thánh Têrêsa Avila).Tôi và anh chị em dân tộc Kơho đang sống hạnh phúc bên núi rừng, bên bản làng Cao nguyên để chuẩn bị mừng kính Thánh Cả Giuse ngày 19/3.

Xin Thánh Cả Giuse, giúp mọi người chúng con biết khiêm nhường, hiền hậu như Thánh nhân để chúng con luôn noi gương bắt chước Ngài làm theo Lời Chúa. Amen.

 

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

 

 

9.   CHIÊM NGẮM THÁNH GIUSE

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Trong nghi thức làm phép ảnh tượng các thánh, thừa tác viên Giáo Hội cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không chê bác việc tạc vẽ tượng ảnh các thánh, để mỗi lần con mắt thể xác chiêm ngưỡng ảnh tượng đó, chúng con cũng dùng con mắt ký ức để suy niệm các hành vi và đời sống thánh thiện của các Ngài mà bắt chước. Chúng con nài xin Chúa làm phép + và thánh hóa tượng ảnh này để tôn kính và tưởng niệm đến…Xin Chúa đoái thương, để ai siêng năng tôn kính…trước tượng ảnh này, thì nhờ công nghiệp và sự che chở của Người, được Chúa ban ơn thánh ở đời này và vinh hiển ở đời sau. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

Người Kitô hữu tôn kính các thánh qua các ảnh tượng. Con mắt thể xác chiêm ngưỡng vị thánh thì con mắt ký ức suy niệm hành vi và đời sống thánh thiện của ngài để noi gương bắt chước.

Hôm nay Lễ Thánh Giuse, chiêm ngắm và học nơi Ngài hai nhân đức cần thiết cho đời sống đức tin.

  • Nhạy bén

Đọc Phúc Âm ta thấy Giuse có tâm hồn mở ra với tiếng gọi của Thiên Chúa và rất nhạy bén trước ý định của Người.Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ biết là ý Chúa là Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành. -Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm.Người Hôn Thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19).Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). – Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày.Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). – Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng.Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi.Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21). Trước Thánh ý Thiên Chúa, Giuse nhạy bén lắng nghe và vâng phục chu toàn.Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38).

Để nhạy bén với tiếng gọi của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi Ngài. Thánh Giuse hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững.Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, Ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình.

  • Kiên quyết.

Phúc Âm nói rất ít về thánh Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều đó là đức tính kiên định.

Nhạy bén tình hình thực tế nên thấy mối đe dọa cho Hài Nhi, Ngài mau mắn lên đường lánh nạn. Đường xa vạn dặm từ Do thái sang Ai cập mà vợ yếu con thơ, núi đồi hiểm trở, cướp bóc rình rập, nhưng Thánh Giuse luôn kiên quyết đã quyết định là làm cho đến cùng để bảo vệ gia đình.

Đọc Phúc Âm ta thấy rõ đức tính ấy. Từ khi đưa Đức Maria đang mang thai về quê hương Bêlem để khai sổ kiểm tra cho đến khi định cư tại Nazareth, Thánh Giuse luôn kiên quyết bảo vệ gìn giữ gia đình. Về quê quán, đường xa xôi cách trở. Khi đến nơi “Maria đã đến ngày sinh nở”, và phải sinh con “nơi hang đá bò lừa” vì “hai ông bà không tìm được nhà trọ”(Lc 2,7). Chỉ ít lâu sau được lệnh “Thiên sứ báo tin phải lên đường, đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,13). Vâng theo ý Chúa, “ngay đang đêm, Giuse chỗi dậy đem con trẻ và mẹ Người lên đường đi Ai cập” (Mt 2,14). Định cư tại Ai cập cho đến khi nhận được lệnh thiên sứ “hãy đưa con trẻ trở về quê hương”, Giuse “lại chỗi dậy đưa gia đình về lại quê hương Nagiaret”. Bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua. Ngài là cột trụ gia đình, kiên nhẫn làm việc đổ mồ hôi nước mắt, bằng sức lao động để nuôi sống và đem lại hạnh phúc cho gia đình.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi.Tấm gương của một con người luôn nhạy bén tình hình thực tế và khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Nhờ hai đức tính nhạy bén và kiên quyết mà Thánh Giuse đã trở thành đấng bao bọc che chở Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người rất hiệu quả. Đó cũng là bài học quý giá cho đời sống đức tin và trách nhiệm mà Chúa giao phó cho chúng ta. Luôn nhạy bén với tiếng Chúa gọi, nhạy bén với tiếng lương tâm, với các biến cố đời sống, với những biến chuyển của thời đại và với những lời nhắn nhủ của anh chị em mình. Nhạy bén trước những mối nguy hiểm đe dọa những nguy cơ rình rập đời sống, cần kiên quyết để vượt qua. Bất cứ việc gì, đã quyết định là làm cho đến cùng với tinh thần trách nhiệm.

Thánh Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống đời thường đã biến thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động. Xin cho mỗi người chúng con học nơi Ngài, luôn biết nhạy bén và kiên quyết sống theo hướng dẫn của đức tin. Amen.

 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

10.                LỄ KÍNH THÁNH CẢ GIUSE

Giuse Tú Nạc, NMS

 

Những điều mà chúng ta biết về hiền phu của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giê-su bắt nguồn từ Thánh Kinh và điều đó dường như đã quá khiêm tốn đối với những ai đã khắc họa những truyền thuyết về Ngài.

Chúng ta chỉ biết Ngài là một thợ mộc, một người lao động, để rồi những người Nazareth hoài nghi hỏi tin về Chúa Giê-su, “Đây có phải là con của người thợ mộc không?” (Matthew 13: 55). Ngài chẳng phú quí gì vì khi Ngài dẫn Chúa Giê-su lên đền thờ để chịu phép cắt bì và Maria được thanh tẩy, Ngài đã dâng vật hiến tế đôi chim gáy hoặc một cặp bồ câu, duy chỉ cho phép những ai không có khả năng tiền bạc mua một con chiên. (Luke 2: 24).

Mặc dù với công việc và phương tiện hèn mọn của Ngài, Thánh Giu-se đã xuất thân từ dòng dõi hoàng gia. Lu-ca và Mat-thêu đã bất đồng một vài chi tiết về dòng dõi của Thánh Giu-se, nhưng cả hai họ đều ghi nguồn gốc của Ngài từ dòng dõi David, vị hoàng đế vĩ đại của Israel (Matthew 1: 1-16 và Luke 3: 23-38). Thật vậy, vị thiên sứ đầu tiên nói với Giu-se về Chúa Giê-su gặp gỡ Ngài với tư cách “con của David,” một danh hiệu hoàng gia cũng được dùng cho Chúa Giê-su.

Chúng ta biết Thánh Giu-se là một người nhẫn nại và giàu lòng nhân ái. Khi Ngài biết được Maria đã thụ thai sau khi họ đính hôn, Ngài biết đứa trẻ ấy không phải là con mình, nhưng chỉ vì không ngờ rằng hài nhi mà Maria đang mang thai là Con của Thiên Chúa. Ngài đã định ly hôn Maria theo luật, nhưng Ngài đã quan tâm lo lắng cho sự đau khổ và an toàn của Maria. Ngài biết rằng những phụ nữ bị kết tội ngoại tình có thể bị ném đá cho đến chết, nên Ngài quyết định lặng lẽ chia tay và không tiết lộ cho Maria biết vì hổ thẹn và tàn nhẫn (Matthew 1: 19-25).

Chúng ta biết Chúa Giê-su là người của đức tin, vâng phục trước bất cứ điều gì mà Thiên Chúa yêu cầu ở Ngài mà không cần biết hậu quả như thế nào. Khi thiên sứ đến với Thánh Giu-se trong giấc mơ và nói với Ngài sự thật về đứa trẻ mà Maria đang cưu mang, Thánh Giu-se lập tức không thắc mắc và để ý nhưng tin đồn nhảm, đã chấp nhận Maria là vợ mình. Khi thiên sứ một lần nữa trở lại nói với Ngài rằng gia đình Ngài găp nguy hiểm, tức khắc Ngài từ bỏ mọi thứ của riêng mình, tất cả gia đình và bè bạn, rồi chạy trốn đến một quê hương xa lạ cùng người vợ trẻ và con thơ dại. Ngài đã chờ đợi ở Ai cập mà không một than vấn cho đến khi thiên sứ nói với Ngài đã đến lúc an toàn để trở về (Matthew 2: 13-23).

Chúng ta biết Thánh Giu-se đã yêu thương Chúa Giê-su như thế nào. Mối quan tâm duy nhất của Ngài là dành sự an toàn cho hài nhi này mà Ngài đã được ủy thác. Không chỉ Ngài đã từ bỏ quê nhà để bảo bọc Chúa Giê-su, mà trên lần trở về của ngài được an cư ở thị trấn tối tăm Nazareth không còn sự sợ hãi đối với cuộc đời của Ngài. Khi Chúa Giê-su ở lại trong Đền Thờ chúng ta được nghe kể rằng Thánh Giu-se (cùng Mẹ Maria) đa tìm kiếm lo âu ba ngày ròng rã (Luke 2: 48). Chúng ta cũng biết rằng Thánh Giu-se đã đối xử với Chúa Giê-su như con ruột của mình mà không biết bao lần người dân Nazareth hỏi về Chúa Chúa Giê-su, “Đây không phải là con của Giu-se sao?” (Luke 4: 22).

Chúng ta biết Thánh Giu-se hết mực tôn kính Thiên Chúa. Ngài đã bước theo những yêu cầu của Thiên Chúa trong danh nghĩa tình huống với Maria và sẽ đi đến Jerusalem để Chúa Giê-su chịu phép cắt bì và Maria thanh tẩy sau khi hạ sinh chúa Giê-su. Chúng ta cũng được nghe rằng Ngài đa dẫn gia đình tới Jerusalem mỗi năm để dự Lễ Vượt Qua, điều gì đó mà không thể có một cách dễ dàng đối với một người lao động.

Từ khi Thánh Giu-se không xuất hiện trong cuộc đời công khai của Chúa Giê-su, như lúc sinh thì trên thập giá cũng như lúc phục sinh, nhiều thánh sử gia tin rằng Thánh Giu-se có thể đã qua đời trước khi Chúa Giê-su bước vào sứ vụ rao giảng công khai.

Thánh Giu-se là người bảo trợ lúc lâm chung bởi vì, giả định Ngài đã qua đời trước lúc cuộc đời công khai của chúa Giê-su, Ngài đã chết với Chúa Giê-su và Mẹ Maria gần gũi với Ngài, con đường mà chúng ta ai nấy đều được mời gọi để từ giã thế gian này.

Thánh Giu-se là người bảo trợ của toàn Giáo Hội, những người cha trong gia đình, những người thợ mộc, và công bằng xã hội.

Chúng ta dành cho Thánh Giu-se hai ngày lễ kính nhớ: 19 tháng Ba – Thánh Giu-se Bạn Thanh Sạch của Đức Nữ Đồng Trinh Maria và 1 tháng Năm – Thánh Giu-se của những người thợ.

Còn nhiều điều mà chúng ta ước ao muốn biết về Thánh Giu-se – Ngài sinh ra khi nào, ở đâu, Ngài đã dành những thời gian của ngài như thế nào, Ngài qua đời khi nào và như thế nào. Nhưng Thánh Kinh đã để lại cho chúng ta một nhận thức quan trọng nhất: Ngài là ai – “Một người công chính.” (Matthew 1: 18).

Lạy Thánh Giu-se, xin hãy bảo trơ toàn Giáo Hội, chiu trách nhiệm trông coi Giáo Hội, thận trọng như Ngài đã trông coi Chúa Giê-su, giúp đỡ, bảo vệ và dẫn dắt như Ngài đã thực hiện với dưỡng tử của Ngài. Amen.

  

Giuse Tú Nạc, NMS

  

11.                 THÁNH GIUSE

  • Vũ Đình Tường

 

Thánh Giuse là người công chính. Công chính ở điểm nào? Kinh Thánh ghi: ‘ ông không chịu tố cáo bà Maria đã có thai trước khi hai ông bà về sống chung. Không chịu tố cáo để trở nên công chính.  Như vậy, công chính ở đây bắt đầu ở cẩn ngôn khi phán đoán. Cẩn trọng trong lời ăn, tiếng nói. Người trưởng gia đình cần phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, nhất là khi cần phải bình phẩm về người khác. Cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói là bằng chứng cho biết người đó công chính. Thánh Giuse không nói cũng không có nghĩa là ông bỏ qua, không nói gì hết. Thánh nhân đã nói rất nhiều. Khi nào? Thưa nói trong lúc cầu nguyện cùng Thiên Chúa, xin Chúa soi sáng cho biết việc phải làm. Chính việc cầu nguyện này biến thánh Giuse trở thành người công chính. Như thế công chính không phải do lời nói, cẩn ngôn, cũng không phải do hành động mà chính là lòng tin. Thánh Giuse không thể tự làm cho mình nên công chính. Thánh Giuse trở nên công chính là do Lời Chúa, ân sủng Chúa giúp thánh Giuse trở nên công chính. Lời Chúa là lời công chính và ai tin vào Lời đó sẽ được Lời làm cho ra công chính. Có lẽ tư tưởng bài hát Lời Ngài dậy con trong đêm tối. Lời Ngài dậy con lúc lẻ loi lấy từ tư tưởng này của thánh Giuse.

Thánh Giuse cầu nguyện rất nhiều, nhất là về đêm vì thánh thần linh ứng cho ông vào ban đêm, trong giấc mơ, giấc mộng. Không phải một lần mà là nhiều lần với những sứ vụ khác nhau. Nghe tiếng nói trong mơ, mộng có thể rất thật mà cũng có thể rất mơ hồ. Không thể xác định thánh Giuse có nghi ngờ gì về điều nghe biết trong giấc chiêm bao. Có hai trường hợp có thể xảy ra. Thứ nhất thánh Giuse không tin tuyệt đối vào những gì nghe biết trong giấc chiêm bao. Nếu giả thuyết này đúng thì thánh Giuse đặt trọn niềm tin vào Người Con mà Thiên Chúa trao cho ông coi sóc là một người hết sức đặc biệt. Giả như suy đoán này đúng thì thánh Giuse có thể nghi ngờ vào giấc chiêm bao nhưng lại tin vào Người Con. Mà tin vào Người Con là tin vào Chính Thiên Chúa vì Người Con này là Thiên Chúa giáng trần. Rất có thể Giuse không hiểu như chúng ta hiểu ngày nay. Ông chỉ hiểu là Người Con này có một sứ mạng rất đặc biệt. Bởi đây là Người Con với sứ mạng hết sức đặc biệt nên dù trong cuộc lữ hành có nguy hiểm, khó khăn đến mấy kết quả cũng hoàn thành tốt đẹp vì đây là Người Con Chúa đặc biệt lưu tâm, để ý. Tin tưởng vào lí luận đó mà Thánh giuse vượt qua mọi gian nan, thử thách. Khó khăn mấy cũng cố hoàn thành, thử thách nào cũng gắng vượt qua. Đau khổ nào cũng chấp nhận.

Thánh Giuse không hề than phiền hay đặt nghi vấn về sứ mạng thần linh linh ứng khi ông gặp khó khăn, hoàn cảnh hoạn nạn. Nếu nghi ngờ ông đã bỏ cuộc. Rất dễ chỉ cần quay ngược lại, làm theo ý riêng, suy nghĩ riêng là Giuse tránh khỏi biết bao phiền toái, lo lắng, đau khổ. Bị xua đuổi, bị nằm ngủ nơi chuồng bò, đồng hoang nhưng thánh nhân vẫn một mực trung kiên, tuyệt đối tin tưởng phó thác vào Chúa. Khó khăn, nguy hiểm, khổ sở, rét mướt, đói khát không làm cho thánh Giuse mất lòng tin, hay than van, kêu cầu Chúa thay đổi ý định hay hoàn cảnh. Trái lại thánh nhân quyết tâm tin tưởng, phó thác. Có lẽ thánh Giuse cảm thấy bình an, tự tin trong việc mang gia đình ra đi. Điều này cho thấy thánh Giuse rất tin tưởng vào sức mạnh của cầu nguyện. Chính sự tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa khiến thánh Giuse trở thành người công chính.

 

  • Vũ Đình Tường

 

12.                BÓNG THÁI SƠN

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Một người phú hộ giàu có nọ, khi đến tuổi già yếu, biết mình đã gần đất xa trời, ông liền gọi những người mắc nợ đến để yêu cầu thanh toán nợ nần. Ông phán bảo những con nợ rằng: nếu các ngươi không thể trả nợ cho ta ở đời này thì các ngươi phải cam kết thề hứa một cách trọng thể là sẽ hoàn trả các món nợ của các ngươi ở kiếp sau, ta sẽ đốt hết các tờ khế ước mà các ngươi đã ký kết với ta. Nghe vậy, người thứ nhất mắc nợ ông 10 lượng vàng đến qùy gối thưa:

–      Thưa ông, trong kiếp sau con hứa trả nợ cho ông bằng cách làm con ngựa để ông cưỡi lên và con sẽ đưa ông đi bất cứ nơi nào ông muốn.

Người thứ hai mắc nợ ông 100 lượng vàng cũng đến qùy gối và thưa:

–      Thưa ông, trong kiếp sau con xin chấp nhận làm trâu kéo cày, kéo xe chở đồ cho ông để hoàn trả món nợ đời này.

Người phú hộ ưng nhận lời hứa của hai người này và bằng lòng đốt tờ khế ước xóa nợ cho họ.

Sau cùng, người thứ ba với món nợ cũng rất khổng lồ là 1000 lượng vàng cũng đến qùy gối trước mặt ông và thưa:

–      Thưa ông, để hoàn trả món nợ khổng lồ của con với ông từ trước đến nay, kiếp sau con sẽ làm cha của ông.

Nghe vậy, người phú hộ tức giận, ông truyền đem roi sắt đến đánh cho một trận nhừ tử vì tội vô lễ và bất kính, nhưng người này bình tĩnh giơ tay ngăn cản người phú hộ và xin được phân trần sự việc. Ông nói:

–      Thưa ông, con vốn biết món nợ của con lớn lao lắm, cho dù kiếp sau con có làm thân trâu ngựa cũng không đủ trả nợ cho ông, nhưng con sẵn sàng làm cha của ông, vì chắc hẳn ông cũng quá rõ trách nhiệm nặng nề của cha mẹ đối với con cái mình. Con sẽ làm việc ngày đêm để lo cơm ăn áo mặc cho ông. Con sẽ che chở cho ông như cha mẹ che chở đứa con thơ và chăm sóc ông những khi ông đau ốm cho tới tuổi già, con sẽ không ngại bao gian khó hy sinh nào, cho dù có phải hy sinh tính mạng để ông được no ấm và không thiếu thốn gì, và khi chết, con sẽ để lại cho ông tất cả gia tài mà con đã thu tích được với sức lao động và mồ hôi nước mắt của con. Ông thử nghĩ xem đó có phải là cách đẹp nhất để con trả món nợ khổng lồ kia cho ông sao?

Người giàu có lim dim đôi mắt trầm tư lắng nghe. Một lúc sau ông gật gù mỉm cười rồi đứng dậy đốt bỏ khế ước, tha món nợ khổng lồ của hắn như đã tha cho hai người trước.

Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào về tình yêu và trách nhiệm của người cha trong gia đình. Khi con còn thơ “cha là con ngựa con cỡi con chơi”, và khi con đã khôn lớn cha là chỗ dựa vững chắc cho con niềm tin, nghị lực dấn thân vào đời. Tình cha thật ấm áp, thật thân thương trìu mến. Tình cha là một tình yêu không thể thiếu cho con cái sự tự tin, tính ngay thẳng để bước đi trong cuộc đời như lời bài hát “Tình cha” đã diễn tả:

Tình Cha ấm áp như vầng Thái Dương

Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn

Suốt đời vì con gian nan,

Ân tình đậm sâu bao nhiêu, Cha hỡi Cha già dấu yêu

Và con nhớ mãi những ngày tháng qua

Kỷ niệm năm nào khó phai trong lòng

Nhớ hoài tuổi thơ bên Cha, gian khổ ngày đêm chăm lo

Mong muốn con được lớn khôn

Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh

Và Cha nằm ôm con sưởi ấm những canh dài

Nhè nhẹ hôn con và Cha khẽ nói: Này con yêu ơi…

Con hãy nhớ.. hãy nhớ… lời Cha sống cho nên người

và con hãy chớ bao giờ dối gian

Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm!

Những lời của Cha năm xưa

Con nguyện ghi sâu trong tim

Cha hỡi Cha già dấu yêu…

Vâng, chấp nhận trở nên người cha, người mẹ của ai là như tự gánh lấy cho mình một món nợ khổng lồ mà chỉ có thể hoàn trả đầy đủ bằng tình thương mà thôi. Thật vậy, tình thương của người cha là tình thương không tiền bạc nào có thể mua được. Nó là thứ tình thương chân thật và sâu xa, là phản ánh tình thương bao la của Thiên Chúa với nhân loại. Cho đi cách nhưng không và không mong được đền ơn báo đáp.

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội tôn vinh một người cha trong gia đình là Cha Thánh Giuse. Ngài đã trở thành mẫu gương cho tấm lòng của một người cha luôn dấn thân cách dứt khoát, không nề quản gian nan để bảo vệ gia đình và giúp gia đình vượt qua những sóng gió nghi nan. Ngài luôn bình tâm trước mọi biến cố thăng trầm của dòng đời. Ngài luôn can trường để vượt qua mọi gian nan khốn khó. Ngài không chùn bước trước khó khăn và nhất là luôn đón nhận thánh ý Chúa với niềm tin yêu phó thác và cậy trông.

Nhìn vào cuộc đời của Ngài, có lẽ Ngài là một người cha đầy bôn ba, đầy vất vả. Ngài đã phải dẫn dắt gia đình đi qua biết bao sóng gió nguy nan ùa tới như muốn nhận chìm gia đình. Sự khốn khó nguy nan đã khởi sự từ ngày Con Thiên Chúa hạ sinh. Thánh Giuse đã phải đối phó với biết bao cực nhọc. Từ việc bôn ba tìm kiếm quán trọ cho mẹ con hài nhi. Rồi đưa vợ con trốn chạy sang Ai Cập. Nơi đất khách quê người Ngài đã phải vật lộn với miếng cơm manh áo từng ngày cho gia đình. Thế nhưng, Ngài đã vượt qua tất cả. Ngài vẫn mãi mãi là chỗ dựa vững chắc cho gia đình thánh gia. Ngài đã chu toàn bổn phận một gia trưởng trong gia đình đầy khó khăn, với những sóng gió tư bề. Vì thế, cuộc đời của Ngài thực sự là một mẫu gương cho các người cha. Một người cha không sợ nghi nan, không thoái thác trách nhiệm nhưng luôn là điểm tựa cho gia đình được yên vui và hạnh phúc.

Và có lẽ, cuộc đời hôm nay vẫn rất cần những con người như Cha Thánh Giuse. Một người cha để bảo vệ gia đình khỏi những sự tấn công của tục hoá đang làm băng hoại luân lý gia đình và xã hội. Một người cha có trách nhiệm để mang lại cho vợ con điểm tựa của cuộc sống. Một người cha dám quên đi hạnh phúc riêng của mình để mang lại an cư lạc nghiệp cho gia đình. Một người cha biết tuân phục thánh ý Chúa để nêu gương sống đạo cho con cái. Một người Cha dám chấp nhận mọi đắng cay, cực khổ để mong mỏi đàn con có được cơm no áo ấm và được che chở như trong câu ca dao:

“Còn Cha gót đỏ như son

Đến khi Cha mất, gót con dính bùn”

Ước mong cho các người cha trong giáo xứ chúng ta luôn biết noi gương thánh Giuse để trở thành chỗ dựa cho đàn con. Ước gì tình thương và tấm lòng của mọi người làm cha đểu được con cái tôn vinh:

Cha là núi cả trên cao

Cho con sỏi đá đi vào trần gian

Cha là nghiêm khắc vô vàn

Cho con chân cứng đá mềm trường chinh

Chính tình cha vững bền như thế mà đạo làm con luôn dạy phải khắc ghi trong lòng:

“Công Cha như núi Thái Sơn

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Amen

 

 

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

13.                 THÁNH GIUSE – GƯƠNG SỐNG ĐỨC TIN

 

Tác giả Thánh vịnh 116 đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: Ôi nhục nhã ê chề, đã thốt lên trong cơn hoảng hốt: mọi người đều giả dối”. Có thể nói tác giả đã tuyên xưng niềm tin của mình trong một hoàn cảnh hết sức cay đắng, thậm chí bị nhục nhã vì mang danh là dân của Chúa, mà giờ dây dường như Chúa để cho dân của Ngài bị tủi hổ bời dân ngoại đàn áp, bị người đời khinh miệt, bị bạn bè bỏ rơi.

 

Thưa quý OBACE, tin vào Thiên Chúa khi thành công, khi vui mừng có vẻ dễ dàng, nhưng để tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa khi gặp thất bại hay khó khăn thử thách, quả là không dễ, và để nói lên lòng trung thành vơi Thiên Chúa khi bị nhục nhã, khi khi bị Thiên Chúa dày vò, thì càng khó hơn nữa. Hôm nay, chúng ta đang chiêm ngắm một con người dường như chỉ biết tin và nhắm mắt bước đi trong niềm tin của mình, và không thiếu những lúc Ngài phải cắn răng chịu đựng vì những thử thách liên tục ập xuống trên cuộc đời của ông và gia đình ông, người đó chính là Thánh Giuse.

Những tửơng rằng, kết hôn với một người con gái đạo đức, và bản thân của Ngài sống một cuộc sống công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa và mọi người, chu toàn giời răn và lề luật một cách vuông tròn, thì Thiên chúa cũng sẽ phải bù đắp lại cho Ngài một cuộc sống gia đình tốt đẹp! Thế nhưng lại hoàn toàn ngược lại, Thiên Chúa dường như cứ muốn thử thách đức tin của Giuse để thẩm định lòng tín trung của ông: Niềm vui trong cuộc kết hôn với Maria đã chưa được trọn vẹn, thì một tin sét đánh đến với Giuse, Maria bạn của Ngài đã có thai mà không biết từ đâu. Trước hoàn cảnh khó xử này, Giuse không thể hiểu hết được, nên ông đã chọn giải pháp rút lui để cho Thiên Chúa định liệu theo kế hoạch của Ngài, vì ông vẫn hoàn toàn tin tưởng mọi việc đều do Thiên Chúa và tin vào sự thánh thiện đạo đức của Maria, và không dám hồ nghi điều xấu cho người bạn của mình. Đức tin của Giuse đã thể hiện qua cách xử sự này, thay vì giải quyết theo phương án của con người, đó là tố cáo và công khai điều này trước mặt mọi người, và nếu như thế, thì Maria và gia đình sẽ vô cùng nhục nhã, và phải mang bản án ném đá, nhưng Giuse đã không làm như vậy, ông đã chọn giải pháp cầu nguyện để nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Chắc chắn Giuse đã phải cầu nguyện rất nhiều, và vì muốn tìm kiếm thánh ý của Thiên Chúa, nên chỉ cần một điềm báo mộng, thì Giuse đã sẵn sàng đón nhận Maria về làm vợ mình, và hết lòng tôn trọng người vợ của mình không nghi nan, không thắc mắc nữa.

Việc chấp nhận Maria và thai nhi đã đòi Giuse phải có một cái nhìn hết sức siêu thoát, và việc tin hài nhi trong lòng Maria là Con Đấng Tối Cao, Đấng là Thiên Chúa mà ông lại được quyền đặt tên cho Ngài là Giêsu, tin như thế đã là một bước dài, vậy mà Thiên Chúa vẫn không cho ông và gia đình được hưởng một ưu tiên nào, trái lại ông vẫn phải đối diện với thử thách khác: phải đem vợ mình đang mang thai trở về quê qua một hành trình dài. Tại quê hương là Bethlehem, ông không được ai đón nhận, cả hai vợ chồng bị chơ vơ lạc lõng trong giá lạnh đêm khuya, rồi Maria đã đến lúc sinh con mà không tìm được nơi nương tựa, trong hoàn cảnh đó, một mình Giuse lại phải xoay sở để tìm được một chỗ trú chân qua đêm cho cả hai người và nhất là cho một hài nhi bé bỏng. Tin vào Thiên Chúa những lúc bị người đời hắt hủi, cô đơn buồn tủi như thế, không dễ dàng chút nào, nhất là giờ đây, Giuse lại phải tin hài nhi bè nhỏ yếu ớt kia là chính Thiên Chúa của mình, và là Con Đấng Tồi Cao…

Không chỉ là một con người có một đức tin sâu xa tín thác vào Thiên Chúa, Giuse còn là người đã thể hiện đức tin của mình qua việc trung thành chu toàn việc thờ phượng Thiên Chúa qua các lễ nghi lề luật truyền dạy. Chúng ta có thể thấy điều đó khi ông bà chu toàn việc dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa như luật dạy. Giuse đem con trẻ Giêsu và người vợ lên Giêrusalem để vừa làm lễ thanh tẩy cho Maria, vừa để hiến dâng con cho Thiên Chúa.  Của lễ của gia đình dâng cho Thiên Chúa chỉ là một của lễ đơn sơ chân thành theo hoàn cảnh nghèo của minh, họ dâng chúa một đôi chim bồ câu. Ngày nay chúng ta thường thấy nhiều người nhân danh sự nghèo khó vất vả của mình để bỏ qua việc thờ phượng Thiên Chúa, thế nhưng Giuse đã không như thế, ông đã tin với một đức tin chân thành đơn sơ phó thác cả gia đình, công việc cho sự quan phòng của Thiên Chúa, không tính toán so đo, trái lại cả hai vợ chống đến với Chúa với một tâm tình tạ ơn và yêu mến.

Cũng thế, mặc dù sau những sóng gió liên tục, gia đình của Giuse về định cư tại Nazaret, với một cuộc sống bình dị đạm bạc, Giuse cũng phải vất vả với công việc để nuôi sống vợ con, vậy mà, không khi nào Giuse lên tiếng than van hay trách móc, cũng không vì sự vất vả khó khăn của cuộc sống mà Giuse cho phép mình lơ là trong việc bổn phận thờ phượng Thiên Chúa. Chính vì thế, Thánh Kinh đã ghi lại rằng: hàng năm cha mẹ chúa Giêsu có thói quen trẩy hội đi lễ đền thờ Giêrusalem. Thói quen hàng năm ấy chỉ có được nơi những con người chuyên chăm siêng năng dám phó thác đời sống và công việc cho Chúa, đã dám gác lại những lo lắng riêng tư đế có thời gian đến với Chúa, và chính từ sự chuyên chăm này, Giuse đã hình thành nên nếp sống đạo và đời sống đức tin cho vợ và người con là Giêsu.

Lược qua một vài biến cố như thế trong cuộc đời của Thánh Giuse, để thấy rằng Thánh Giuse quả thật là con người có một đức tin sâu xa vào Thiên chúa, sống đức tin một cách cụ thể qua các biến cố của cuộc sống gia đình và còn là người thể hiện đức tin qua việc chu toàn lề luật và việc phụng thờ Thiên Chúa. Chính vì có một đời sống đức tin như thế nên Thánh Thánh Giuse trở thành tấm gương sống đức tin cho mỗi người chúng ta, và cuộc sống của Ngài còn được sánh như đức tin của tổ phụ Apbraham và của Thánh vương Đavít.

Apbraham ngày xưa cũng đã có một đức tin mạnh mẽ, ông đã tin và đã bước theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa để lên đường, dù phía trước mặt ông tương lai thật mờ mịt, Thánh Kinh diễn tả rằng: ông ra đi mà không biết mình đi dâu. Apbraham đã tin và đã hoàn toàn trao phó cuộc đời, tương lai và hy vọng của ông cho lời hứa của Thiên Chúa, ông không chút hồ nghi, không tính toán, không oán trách Thiên Chúa, cho dù có nhiều lúc đau khổ tan nát cõi lòng. Cũng thế Thánh vương Đavít, cũng đã sống trọn vẹn đức tin vào thiên Chúa, cả những khi vô cùng nhục nhã, lên voi xuống chó, sống chui sống nhủi, bị những kẻ vô lại khạc nhổ chửi bới, vậy mà ông vẫn tin và không hề mở niệng than trách Thiên chúa và ông  nhận ra rằng: tất cả là vì lỗi của tôi, nên Thiên chúa đã xử với tôi như thế.

Thưa quý OBACE, Thiên Chúa sẽ trả lại cho những kẻ tin trung bằng tình yêu thương trung tín của Ngài, vì tin, nên Apbraham được trở thành cha của những kẻ có lòng tin, ông được trở nên như bạn hữu của Thiên Chúa; Đavít, nhờ tin mà trở thành kẻ Chúa yêu thương và còn hứa sẽ lập cho ông một triều đại trường tồn mại mãi; và cũng thế, vì trung thành với đức tin mà Giuse được Thiên Chúa tín nhiệm trao phó con của Ngài cho ông chăm sóc, cho Giuse được cộng tác một cách hết sưc chặt chẽ với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin, mỗi người được mời gọi làm mới lại đức tin của mình, củng cố và làm cho đức tin của mình nên vững chắc trước những sóng gió và sự tấn công của con người và của thế giới, của khoa học và của các trào lưu tư tương hiện nay, bằng việc siêng năng học hỏi suy gẫm Lời Chúa và Giáo lý của Hội Thánh. Các bậc làm cha mẹ hãy noi gương thánh Giuse: không chỉ củng cố đức tin của mình để có thể vượt qua những thử thách sóng gió của cuộc sống gia đình, mà còn phải trở nên thày dạy đức tin cho con cái trong gia đình, biết giải quyết các khó khăn trong cuộc sống gia đình trong cái nhìn đức tin và theo giáo huấn của giáo hội. Mỗi người hãy củng cố đức tin của mình bằng việc tham dự một cách thường xuyên các cử hành phụng vụ của giáo Hội, siêng năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể, vì các cử hành phụng vụ của Giáo Hội là cách thế bày tỏ đức tin của Giáo Hội và của mỗi cá nhân trong sự gắn bó với Giáo hội, và cũng là cách thế để nuôi dưỡng và củng cố đức tin của mỗi người chúng ta.

Qua lời bầu cử của Thánh Giuse, xin Chúa thêm đức tin cho mỗi người để chúng ta có thể nên giống như thánh nhân trở thành những con người thực hành đức tin trong xã hội hôm nay. Amen.

 

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

14.                THÁNH GIUSE – ĐẤNG CÔNG CHÍNH

 

Cùng toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Thánh Giuse – bạn trăm năm của Đức Maria và là dưỡng phụ của Chúa Giêsu.

Thánh Giuse thuộc dòng dõi Vua Đavít, một triều đại được xem là tột đỉnh vinh quang của dân tộc Do Thái. Đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo: Chúa Cứu Thế sẽ được sinh ra từ vọng tộc này. Được tôn vinh là « Đấng Công Chính » vì Thánh Giuse có đức tin vững vàng và đức vâng phục thẳm sâu, luôn khiêm tốn thi hành ý muốn của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, trong mọi hành động và ước muốn.

Trong biến cố truyền tin, thánh sử Matthêu viết: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên đã đã định tâm bỏ bà cách kín đáo“(Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của Thánh Giuse. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh, “người công chính” là người được Thiên Chúa yêu thương và được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Kim khẩu giải thích thêm: tiếng Công chính nơi Thánh Giuse nghĩa là “no đầy ơn phước”.Thuộc dòng dõi Vua Đavít, Thánh Giuse cũng có những dự tính riêng cho cuộc đời mình. Nhưng sau khi nghe lời Sứ Thần giải thích về kế hoạch của Thiên Chúa, Thánh nhân đã tin tưởng đón nhận Mẹ Maria về nhà và trở thành cha nuôi của Chúa Giêsu.

Thánh Giuse đã sống một cuộc đời âm thầm và khiêm tốn nơi làng quê Nagiaret nhỏ bé. Ngài tận tụy ân cần chăm sóc Mẹ Maria và dưỡng dục Chúa Giêsu.Đức công chính cao vời đó là một kho tàng ẩn giấu trong một nếp sống hết sức bình dị. Ngài thu giữ thánh hạnh một cách kín đáo, khéo léo đến nỗi mắt phàm khó nhận ra và sử sách không ghi chép lại được. Dưới lớp áo xanh lao động bạc màu là cả dòng máu trâm anh với một tâm hồn cao khiết. Tại ngôi làng Nagiaret nhỏ bé, người ta chỉ biết có bác thợ mộc với đôi tay chăm chỉ cần mẫn lao động và một trái tim trung thành bất chấp mọi gian lao.Thánh nhân không đòi hỏi gì cho riêng mình: không tiền bạc, không danh vọng, chỉ vui sướng được hy sinh chăm sóc cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Cuộc sống đang yên bình thì Giuse nhận được tin báo phải đưa gia đình sang Ai Cập lánh khỏi cơn thịnh nộ của Hêrôđê. Ngay trong đêm khuya, Thánh nhân đã trỗi dậy đem Con Trẻ và Mẹ Người ra đi rồi lại trở về theo kế hoạch của Thiên Chúa. Kỷ niệm lần đầu tiên lên đền thờ Giêrusalem năm mười hai tuổi còn ghi đậm trong tâm khảm Chúa Giêsu. Sau khi tìm thấy trẻ Giêsu, Thánh Giuse không một lời quở trách nhưng vui mừng dẫn con trẻ trở về. Hình ảnh ấy làm cho Chúa Giêsu càng thấu hiểu hơn về lòng nhân hậu bao la của Thiên Chúa Cha.Thánh Giuse không nói một lờinhưng Ngài đã hùng hồn nói trong hành động, khiêm tốn, can đảm và kiên trì thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.

Thánh Giuse còn là người sáng ngời về đời sống cầu nguyện. Ngài không để lại một cuốn sách hay linh đạo về cầu nguyện nhưng cả cuộc đời Thánh nhân là những giây phút trầm mặc, cầu nguyện liên lỉ với Thiên Chúa,cầu nguyện cả trong giấc mộng.Từng biến cố xảy ra đều là bài học chiêm niệm đối với thánh nhân.Khi phải chọn lựa giữa kế hoạch của Thiên Chúa và ý riêng mình, Thánh Giuse đã trải qua cuộc chiến đấu về lòng cậy trông với Đức Maria và Chúa Giêsu. Ngài đã đối diện với mầu nhiệm lớnlao của Thiên Chúa và tự hỏi: tôi là một người thợ thấp kém, làm sao được chọn cho một sứ mệnh đặc biệt như thế? Trải qua đau khổ trong nghi nan và đêm tối,Thánh Giuse đã hiểu rằng: ngài được chọn để làm cho lòng cậy trông của dân Thiên Chúa được thành toàn viên mãn. Ngài đã vượt qua tất cả nhờ cầu nguyện.

Như nhành huệ trắng tinh tỏa hương thơm ngát,Thánh Giuse không những trổi vượtvềđức tin và vâng phục mà còn cao trọng hơn vì cómột tâm hồn thanh khiết và khó nghèo. Thánh nhân hằng dâng lên Thiên Chúa mỗi tình cảm, mỗi ý nghĩ và mỗi việc làm của mình, luôn giữ gìn thân xác và con tim không chút tì ố.Thánh nhân đã dùng đức khiết tịnh của mình để bảo vệ Mẹ Maria đồng trinh trọn vẹn và để Ngôi Hai Thiên Chúa có đủ điều kiện giáng thế làm người.

Thánh Giuse là Đấng bảo trợ, Ngài không đồng hành với Chúa Giêsu trên đường khổ nạn, không đứng dưới chân thập giá, không chứng kiến những giây phút vinh quang khi Chúa phục sinh, nhưng thánh nhân đã xuất hiện ở buổi đầu của thời Tân Ước như một khúc dạo đầu nhẹ nhàng êm ái trong bản tình ca cứu thế. Thánh nhân cũng trải qua bao nhiêu vất vả, thử thách, trải qua một chọn lựa đầy tính sống còn mà vẫn tín trung trong ý định cứu chuộc của Thiên Chúa.Vì thế Thánh Giuse xứng đáng được gọi là “Thánh Cả” để chúng ta tôn kính.

Chính Chúa Giêsu là thầy dạy đầu tiên và mẫu gương về lòng sùng kính Thánh Cả Giuse. Ngoài Chúa Giêsu, Mẹ Maria cũng tôn kính Thánh Cả một cách đặc biệt. Bởi đó là người bạn trăm năm thanh tịnh của Mẹ. Trong bộ Tổng luận thần học, Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô đã viết: “Khi Thiên Chúa trao sứ mạng đặc biệt cho người nào thì Chúa cũng ban cho người ấy tất cả tài năng và ân sủng để hoàn thành sứ mạng ấy”. Cũng thế,với tước hiệu là phu quân của Đức Mẹ và là dưỡng phụ Chúa Giêsu,Thiên Chúa đã đặt Thánh Giuse sát bên Đức Mẹ và trên hết hàng các thánh. Giáo hội cũng thiết tha tôn sùng thánh cả như “Đấng bảo trợ thiêng liêng”. Thánh Anphonsô cũng nhận rằng:“Thiên Chúa suy tôn Thánh Giuse hơn cả các thánh tổ tông, các thánh tiên tri và các thánh hiển tu vì các đấng ấy chỉ là tôi tớ Chúa còn thánh Giuse là Cha của Con Thiên Chúa”.

Năm 1870, trước những ưu tư của thời đại, Đức Giáo Hoàng Piô thứ IX đã phó dâng các tín hữu trong tay thánh Cả hộ phù hộ, đã tôn Người là quan thầy toàn thể Giáo hội và truyền dạy hàng năm phải mừng lễ trọng thể kính Người. Càng ngày ta càng thấy rõ vinh quang Người chiếu tỏ, nhân đức Người sáng ngời như những vì sao, lời cầu bầu của Người vạn năng, sự can thiệp của Người mạnh thế. Mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội đều tỏ lòng sùng mộ và quy hướng về thánh Cả như một vị cha già vô cùng phúc hậu.

Gần 30 năm trường, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã lấy làm hạnh phúc được vâng lời Thánh Giuse một cách trọn vẹn.Vì thế, trong mối thân tình ấy, điều gì Thánh Giuse xin cùng Thiên Chúa cũng sẽ được chấp nhận.Dưới sự bảo trợ rất âm thầm của Thánh Giuse, Giáo hội luôn vững tin trước tòa Chúa. Chính thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết: “Tôi thấy không lần nào khấn xin cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.

Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, Chúa đã cho Con Một Chúa xuống thế làm người để chia sẻ thân phận con người như chúng con, Chúa còn quan phòngchọn Thánh Giuse bảo vệ và dưỡng dục Chúa Giêsu những ngày còn niên thiếu, xin Thánh nhân cũng thương bảo vệ, dạy dỗ, nâng đỡ và yên ủi chúng con trong cuộc sống này. Ngày xưa Thánh Giuse đã bảo vệ và dìu dắt Chúa Giêsu thế nào, thì ngày nay chúng con khấn xin Người thương bảo vệ dìu dắt Giáo Hội và từng người chúng con biết trung thành với ơn đã lãnh nhận và đi trọn con đường Chúa mời gọi. Amen.

 

 

15.                BÀI ĐỌC THÊM 100 SỰ TÍCH LẠ VỀ THÁNH GIUSE

Lm. Châu Vị Thuỷ

 

Lời thánh nữ Têrêsa Avilla: “Chúa cho các thánh giúp người ta nhu cầu này nhu cầu nọ, nhưng thánh Cả Giuse thì giúp hết mọi nhu cầu. Đó là lời tôi hằng khuyên người ta”.

 

Lời Minh Định 

Đây là chứng từ của một linh mục tám mươi tuổi, trải bốn mươi năm được đặc ân sùng kính Thánh Giuse song song  với sự tôn sùng Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Đặc ân này bắt đầu bằng một tích lạ như còn ghi tại số 28 trong tập này (tháng 6 năm 1954).


Sự gia ân của Thánh Giuse có tính cách phổ cập: hồn xác, chung riêng, gia đình và xã hội, không trừ một thứ ơn nào. Sự can thiệp của Ngài tuy êm đềm mà rất mạnh mẽ. Nhiều khi vừa mới xin đã được, và được một cách dồi dào. Kẻ chịu ơn mà nhớ ơn thì còn cho thêm nữa.


Nhưng cũng phải nhận thấy tính cách giáo dục của đấng nghiêm phụ, kẻ có tội mà không sửa mình thường bị phạt. Như trường hợp các thanh niên lêu lổng bê tha. thường bị té xe, ngã bệnh, hoặc bị bắt. Hễ chừa thì thôi. Hằng ngày tôi được chứng kiến, hoặc nghe thuật lại nhiều tích thọ ơn Thánh Giuse chuyển cầu, không thể ghi hết được.


Tuy vậy tôi đã ghi được hơn một ngàn tích. Nay xin lựa 100 tích để làm vinh danh Thánh Cả. Các tích này viết ngay tại hiện trường, nên một đôi chỗ có mang vẻ mộc mạc. Chính sự mộc mạc ấy làm chứng cho tính chính xác của sự tích. Xin đừng tìm một mạch lạc nào giữa các tích, vì đã được ghi lại như đã xảy ra thôi. Các tích này chỉ mang giá trị tư riêng của người kể và người ghi. Vì chúng tôi không có điều kiện để điều tra theo Giáo luật.

 

Ngợi khen Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã khứng ban ơn, vì lời Đức Mẹ và Thánh Cả chuyển cầu.

 

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19-3-1995  

Linh mục. Giuse Maria Châu Thủy  

 

Chương một:

BẢO TRỢ NHI ĐỒNG

 

  • Kẻ  mù được sáng

Chú Giuse Vũ Văn Tình, vợ là Maria Phạm Thị Thanh Lan ở kinh 5, Cái sắn. Có đứa con tên là Giuse Vũ Bảo Kiếm. Lúc được 10 tháng, cháu bị đau mắt, cứ nhắm mà khóc, không mở ra được.

Khi đem cháu lên thành phố HCM, bác sĩ Nguyễn Đình Cát, chuyên viên thời danh nhãn khoa, cho biết 2 con ngươi đã lủng, không trông chữa được nữa. Nghe vậy, anh chị buồn bã bế con đến Đền thánh Giuse Chí hòa xin Người cứu chữa. Linh mục tòa khấn banh mắt cháu ra xem, thì con ngươi đã hỏng, chỉ còn 2 lỗ đen ngòm. Sau khi đọc kinh khấn, và dâng bé Giuse cho Thánh Cả, cha mẹ đem cháu về nhà trọ. Ngay tối đó, cháu đã mở được mắt và nhìn theo ánh đèn.

Sau 10 ngày chữa trị nơi bác sĩ Tiên, hai mắt đã sáng lại. Có người hỏi bác sĩ Tiên:

–      Bác sĩ chữa được tật mù sao?

–      Chúa chữa chứ ai chữa được. Thày tôi là bác sĩ Cát còn chịu bó tay nữa là.

Mười hai năm sau, ngày 20-3-1992, thím Tình lại lên đền tạ ơn, và cho biết cháu Kiếm vẫn khỏe mạnh, học giỏi, 2 mắt rất tinh, tuy còn 2 vết sẹo nhỏ ở con ngươi, như làm dấu để nhớ ơn.

 

  • Kẻ  què được đi

Lúc 6 giờ chiều ngày 1-6-1983, sau khi đi dạo mát như thường lệ, tôi đến thăm chú Giuse Vũ Xuân Trực 50 tuổi tại số 5 Mai Khôi, Chí hòa, vì nghe chú đau không đến phục vụ nhà thờ như thường lệ.

Người nhà dẫn tôi lên lầu, qua một cầu thang khá dốc. Lúc đó chú đang ngồi trên chiếc chiếu trải trên sàn nhà, chân trái duỗi thẳng, bôi thuốc đỏ ngầu.  

Số là cách đó 6 ngày, chú rửa hồ chứa nước, vì sắp đến mùa mưa. Chẳng may trượt té, ống chân trái đập vào thành hồ nước, đau đớn lắm, không đi lại được. Người y tá đã phải chích thuốc chống sài uốn ván cho chú.  

Sau khi thăm hỏi, tôi bảo đem đến một li nước lã, để xin Thánh Cả làm phép cho nên linh dược, như tôi đã quen làm xưa nay. Rồi lấy lòng trông cậy, tôi đặt tay lên vết thương, xin Chúa Giêsu chữa người anh em này, vì công nghiệp thánh Giuse , để anh tiếp tục phục vụ nhà thờ. Tôi trao li nước cho anh uống,rồi xức vào chân anh, sau đó tôi chào anh ra về.

Chừng 15 phút sau, tôi đang ở trên lầu, thì được báo có chú Trực sang thăm. Tôi lẩm bẩm một mình: “Cái anh này không  đi được mà đêm hôm còn sang đây làm gì, lỡ té ngã thì khốn”.

Tôi xuống phòng khách. Vừa thấy tôi, chú Trực ở dưới chân cầu thang nhảy lên ba chặp, để tỏ là mình đã khỏi thật. Và hai chúng tôi cùng nhau cầu nguyện, tạ ơn Chúa Giêsu đã ban ơn mau kíp vì sự cầu bầu của thánh Giuse.  

Trước khi ra về, chú còn nhảy mừng, ngợi khen Chúa một lần nữa, làm cho tôi liên tưởng đến ngươi bất toại trong sách Công vụ Tông đồ.

 

  • Bại Liệt  được khỏi

Anh Giuse Nguyễn Văn Đảm, giáo xứ Hương long, Bàu cá, Long-khánh, có con gái: Maria Nguyễn Thị Ngọc Anh. Khi cháu được 4 tuổi thì bị bại liệt: hai chân teo lại , đầu không cất được, nằm ngửa hơ hơ, không nhúc nhích. May có bà Maria Nguyễn thị Sen  đến khấn tòa Thánh Giuse tại Chí hòa cho cháu. Thì ngay đêm đó cháu khóc đòi dẫn đi,. vàtừ đó cháu đi đượcNgày 28-3-1987, bà Sen đưa cháu đến tạ, thì cháu đi tốt tuy còn hơi dệnh dạng. Trí khôn minh mẫn hơn các trẻ đồng tuổi.

 

  • Tìm ra kẻ  trộm

Chị Maria Nguyễn Thị Oanh, 26 tuổi, ở Chí hòa. Mẹ chị đi xa, cha chị có bà nhỏ: Ông bố có món nữ trang  giao cho chị giữ.

Chẳng may bị mất. mà tủ vẫn khóa như thường, chừng sau một tuần lễ mới hay. Bị la rầy, chị buồn lắm.Chị liền cầu khấn thánh Giuse xin cho biết ai lấy. Vừa khấn về, chồng chị tình cờ gặp một người bạn buôn nữ trang. Sau khi nghe biết tự sự,  người đó nói, cách mấy ngày có một người đàn bà, hình vóc y phục như thế, như thế đến bán nữ trang cho hiệu Kim Tiến. Chị Oanh liền đi gặp bà Kim Tiến thì nhận rõ đúng là đồ của nhà mình, liền dẫn ông bố ra để biết rõ sự thật: đó là bà  vợ nhỏ đã quẵm của ông Chị Oanh được giải oan, vui mừng tạ ơn thánh Cả.

 

 

  • Dứt mối tơ  tình

Anh Nguyễn 35 tuổi, ở một xứ đạo miền Bắc, Có vợ con mà còn giăng mắc với một chị  ở Hà nội đã 3 năm. Tháng 6 năm 1979, ông bố nhân dịp vào Sài gòn chữa bệnh, đến khấn tại đền Thánh Cả Giuse Chí hòa, thì linh mục phụ trách bảo: “con ông sẽ về với ông”. Sau chừng một năm , anh Nguyễn xích mích với vợ lẽ về vấn đề tiền bạc, liền quyết đoạn tuyệt, để trở về với gia đình.Để tránh xa dịp tội, anh tình nguyện vào ở Miền Nam, trông coi vườn cây trái ông bố vừa mới tậu.

 

  • Con một cháu  đàn

Anh Khổng Văn Hữu và chị Maria Lành ở Chí hòa, đã thành hôn 7 năm mà chưa có con. Anh  Hữu là con một, bà mẹ sốt ruột mong có cháu. Sự ngăn trở về phía người chồng. Nghe đâu hồi nhỏ anh lên quai bị, và chứng đó có ảnh hưởng đến việc sinh conAnh cũng đã tìm thầy chạy thuốc nhưng chưa có công hiệu. Chị Lành không ngã lòng, đi khấn Thánh Giuse thì chừng hai năm sau sanh được một cháu gái, nặng có 1 ký 6, tưởng là không nuôi được, đặt tên là Maria Giuse Thùy Linh. Không dè cháu khoẻ mạnh, chóng lớn, mau khôn.  Sau đó còn được thêm hai trai một gái nữa. Bà nội hết sức vui mừng. Rõ là con một cháu đàn.

 

  • Lênh đênh biển khơi

Anh Phaolô Nguyễn Đức Lộc, 30 tuổi, làm ăn trên biển ngộ nạn, phải bám phao lênh đênh tám ngày tám đêm, không cơm ăn, không nước uống, nắng gió dãi dẫu, đến sau không biết gì nữa, thì may phúc dạt vào lưới đánh cá của một công ty ngư nghiệp và được cứu sống.  Đương sự thuật lai sự tích và tin là mình đã được Thánh Cả Giuse phù trợ, vì khi nghe tin anh ngộ nạn, vợ con anh đã cầu khấn thánh nhân. Từ đó các bạn gọi anh là phao, vì là chữ đầu của tên thánh Phaolô, vừa có ý nhắc anh nhờ có phao mà sống sót.

 

  • Mất chăn lại thấy

Năm 1973- 1974. tôi đang làm cha sở Trung chánh.  Một hôm, đem cái chăn tàu bay rằn ri (poncho) phơi ngoài vườn gần lối người qua lại. Chiều xuống lúc nào, tôi quên khuấy không cất về. Mãi khuya sực nhớ ra xem, thì chỉ con chỗ để. Tôi kêu cầu Thánh Cả: “Lạy Cha, cái chăn này chẳng đáng gì, nhưng lúc này không mua được nữa.  Xin Cha thúc dục nó trả con”.

Bỗng chiều hôm sau một em bé chừng 12 tuổi, gặp tôi hỏi:  

–      Có phải mất chăn rằn ri không?

Tôi vui mừng hỏi :

–      Sao em biết?

Em trả lời,

–      Nghe cô nhà bếp cha kêu mất chăn. Tối hôm qua, con thấy anh mỗ đi cạnh, có kẹp cái chăn rằn ri nơi nách, để con đi lấy về cho cha.  Thế là tối hôm đó tôi có chăn đắp. Khi viết lại tích này,  sau gần 10 năm, chiếc chăn đó vẫn còn làm bầu bạn với tôi.

 

  • Sinh thuận tử  an

Chết lành về phần hồn là một ơn lớn. Chết an về phần xác cũng không phải là một ơn nhỏ. Đến một mức độ nào đó, sự sống là một khổ cực cho mình và cho người săn sóc.  Lúc đó là lúc ta phải xin ơn chết lành. Năm đó, cha già Huy đã ngoài 70, thấy mình suy yếu, sợ chết trước ông cố thân sinh đã trên chín chục mà vẫn còn ăn ngủ đều hòa. Tôi hỏi: Vậy cha muốn cho cố về chầu Chúa sao?

–      Không dám, chỉ xin Thánh Cả Giuse thương bố, thương con chúng tôi.

Ngoài tôi ra, gia đình không còn ai để săn sóc cụ nữa. Bỗng sau 7 ngày, tôi được thư mời đi dự lễ an táng cố. Số là, một hôm ông đang đi trong nhà thì té xuống.  Chịu đủ các Bí tích  cuối cùng và qua đời êm ái. Mọi việc xẩy ra cách chóng vánh ngoài sức tưởng tượng.

¯¯¯

Một hôm ông Toàn gần 80 tuổi, ở giáo xứ Nghĩa hòa, đến khóc lóc xin Thánh Cả Giuse thương giúp, vì bà vợ nằm liệt đã 2 năm.  Ông không còn sức săn sóc nỗi nữa.  Có người con gái thì chị ta lại nghèo, không giúp đỡ gì được.  Ông xin hoặc cho bà khỏe lại, hoặc Chúa rước bà về. Chừng một tuần sau, ông đến tạ ơn vì bà đã được chết lành.

 

10 Con bị  câm lại nói được

Cháu Maria Đỗ thị Kim Chi lên mười tuổi,  con ông bà Đỗ văn Vĩnh và Phạm thị Thơm.  Ngụ tại số nhà 113/ K/ 151 Tô Hiến Thành, Sàigòn. 

Ngày tết Trung Thu năm 1981, giữa cuộc vui,  cháu bỗng nhiên tắt tiếng.  Tuy còn nghe được, viết được mà nói không được. 

Gia đình lo sợ,  chạy đủ thầy lang,  bác sĩ,  chạy đủ thứ thuốc tây thuốc ta,  châm cứu,  chạy điện….  Mặt khác đi kêu khấn đủ các Đền,  mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm.  Có lúc ông bà ra điên đảo như mất đức tin. 

May nghe tiếng Thánh Giuse tại Chí Hòa hay ban ơn chữa bệnh,   ông bà liền chạy đến cầu  khẩn.  Thì  ngày 20 tháng 11 năm 1981,  lúc 10 giờ sáng,  cháu Kim Chi bỗng hát lên bài “MẾN THÁNH GIÁ”  là bài cả nhà thường hát khi đặt tay trên đầu cháu,  để xin ơn khỏi bệnh.  Nhờ ơn này,  gia đình lấy lại được niềm tin. 

Các bác sĩ săn sóc cháu thấy cháu khỏi bệnh cách lạ lùng,  thì cảm phục và ghi chứng  “Cháu Kim Chi khỏi bệnh câm là nhờ ơn trên ban xuống.”

 

Chương hai:

BẢO TRỢ GIA ĐÌNH

 

  • Chừa cờ bạc

Anh Giuse hoàng Văn Thuận 25 tuổi, lao công tại trường học Văn Đức, Chí Hòa. Anh máu mê cờ bạc thành ra nợ nần. Cha mẹ khuyên bảo cũng vô hiệu. Nhân lễ thánh Giuse 19 tháng 3 năm 1981, nghe cha Giuse giảng về lòng lành Thánh Cả, tại nhà thờ Lộc hưng, anh được ơn động lòng cải thiện.Anh đến gặp cha và xin cha cầu nguyện cho. Ngài khuyên anh cầu nguyện cùng Thánh Cả hằng ngày, và cứ mỗi tuần đến gặp cha một lần để báo cáo tình trạng của anh. Sau vài tháng, anh đã dứt được thói cờ bạc và chí thú làm ăn.

 

  • Gương vỡ lại lành

Một phụ nữ ngoài bốn mươi tuổi, sáu con, có chồng đi học tập ngoài Bắc.  Bốn năm đầu, chị giữ tiết hạnh đáng khen. Nhưng về sau, chị đâm nản, tư tình đến mang thai. Từ đó, chị bỏ bê việc săn sóc con cái và tiếp tế cho chồng. Chị có ý định trốn ra nước ngoài mà không được. Nghe tin ấy, người chồng đau khổ ấy nhất quyết khi được trả tự do, sẽ dạy cho chị một bài học đích đáng rồi bỏ luôn. Hai năm sau, chú được trở về gia đình, chị vợ ôm con riêng lánh mặt. Một người thân trong gia đình đi khấn Thánh Cả Giuse, xin Người cứu giúp. Linh mục Giuse khuyên nên đoàn tụ, vì đạo mình không có cách giải quyết nào khác. Và như thế bảo đảm được Hạnh phúc cho các con và đôi vợ chồng. Nhờ ơn Chúa tác động, hai vợ chồng đã thỏa thuận về chung sống. Còn đứa con tư sinh thì gửi bà con nuôi  giùm, để khỏi chướng mắt người chồng. Ít khi thấy một cuộc tái đoàn tụ lạ lùng như thế.

 

  • Như  thiếu phụ Nam xương

Chị Anna Liễu có chồng và 2 con, ở một giáo xứ Sài gòn kể lại tích này:

Chồng tôi đi học tập ngoài Bắc mới về. Gia đình đang vui vẻ thì chồng tôi đâm ra nghi ngờ tiết hạnh của tôi. Nguyên do là hai đứa con nhỏ của chúng tôi, đứa lên chín, đứa lên bảy, tình cờ kể chuyện chúng đi học bơi, và có hai lần thầy dạy bơi, còn trẻ lắm, ghé thăm nhà vào buổi tối. Than ôi ! lời nói trẻ con giết người lớn, khác nào lời nói của con thiếu. phụ Nam Xương “Bố đến tối mới về”. Chồng tôi cứ khảo hạch tôi. Đau khổ lắm! Sau cùng chúng tôi đưa nhau đến cầu khấn Thánh Giuse tại Chí hòa, đã được linh mục Giuse phân giải. Nhờ đó, chồng tôi hết nghi ngờ, và sự bình an trở lại trong gia đình chúng tôi”.

 

  • Con đường vào đạo

Anh Đoàn Chí Dũng 27 tuổi, nguyên là chú tiểu tu hành ‘theo đạo Phật,  hiện ở Phú Nhuận. kể lại tích sau đây:  
Khoảng tháng 3 năm 1981: tôi đến thăm bà mẹ của cô Têrêxa Nguyễn Thanh Xuân, tình cờ gặp cuốn sách “Thánh Giuse trong Phúc-âm” tác giả châu Thủy. Mở đọc mấy bài đầu thấy hay hay, liền mượn về xem, càng xem càng cảm phục tư cách của ông thánh. Đọc xong cuốn sách thì tôi đem lòng mến Ngài và ước ao nhập đạo. Sau mấy tháng trau dồi giáo lý dưới sự hướng dẫn của cha Phêrô Hưởng, tôi được ơn chịu đạo nhận tên Thánh là Giuse; tên này chính tôi tự chọn lấy để muôn đời ghi nhớ ơn Thánh Cả. Sau đó, ngày 11 tháng 10 năm 1981, tôi làm lễ thành hôn với cô Têresa Xuân tại nhà thờ Tân định. Từ đó đến nay đã mười một năm, tôi còn nhờ ơn Người nhiều lắm: đau yếu thì được khoẻ; thất nghiệp lại có việc làm, hiếm muộn thì cho con trai. Để tạ ơn Chúa , vợ chồng tôi đều phục vụ trong nhà thờ Tân định.

  • Bán hết hàng ế

Chị Maria Nguyễn Thị Tưoi ở Chí hòa kể lại tích này:  
“Hàng ngày tôi bán đậu phộng ở chợ Nghĩa hòa, phải một hôm hàng ế quá. Trời tối rồi mà còn một số cứ nẵm chình ình trên mẹt.  Tình cờ thấy cha Giuse đạp xe đi qua, Ngài nhìn tôi thấy số hàng còn đọng, ngài liền giơ tay lên cầu nguyện và chúc bán cho hết. Xe của Ngài vừa đi khuất, thì bỗng có người đến mua hết số hàng”.

 

  • Đoàn tụ gia đình

Chị Phạm Thị Tươi hai  mươi sáu tuổi, người lương dân ở khu Antôn, Nghĩa hòa kể tích sau đây: “Anh Cao Thành Đạt thành hôn với tôi đã hai năm nay và có một cháu gái. Thời gian gần đây, anh làm công tác thâu thuế tại chợ Tân bình, rồi dan díu với cô hàng bán dép, đem cô về ở bên nhà cha mẹ anh ta. Chẳng những lơ là mẹ con tôi, anhcòn làm đơn li dị tại phường 7, Tân bình.  

May có một chị Công giáo mách cho tôi biết đền Thánh Giuse Chí hòa. Ngày 31 tháng 1 năm 1982, tôi đến khấn thì hôm sau, anh tự động về với mẹ con tôi.  Anh kể hôm đó, đi nhậu về. anh bỗng nhớ vợ con quá và phát khóc.  Mẹ anh hỏi cớ sự rồi khuyên anh kíp trở về với gia đình. Thật là vạn phúc.

 

  • Mất vàng lại thấy

Sáng sớm ngày 10 tháng 3 năm 1982, linh mục Giuse đến nhà thờ hành lễ, mở tuần cửu nhật kính Thánh Cả Giuse.  Bỗng có một bà xin khấn gấp cho hiệu kim hoàn Đức Long, bị mất số vàng lớn.Buổi chiều cùng ngày, bà Đức Long và bà bạn vào tạ ơn.  Hỏi ra thì chị giúp việc trong nhà giấu đi. Trước còn chối miết, sau có nhiều tình tiết quá lộ liễu, chị đành phải thú nhận, và đem của ra hoàn trả nguyên vẹn.

 

  • Tội nhân bị  cảnh cáo…

Anh Phêrô Nguyễn ở Sài gòn, có vợba con mà còn bê tha mèo mỡ, định quấy phá hai người em gái của vợ. Mẹ Vợ đã nhiều lần can gián không chừa. Bà đến khấn Thánh Giuse thì cha phụ trách nói, nếu anh không chừa tất sẽ bị phạt.  
Khoảng giữa tháng 3 năm 1982, anh lái Honda chở bồ bỗng bị té hai lần. Cô bồ bị thương nhẹ, còn anh thì giập đầu xuất huyết não, đưa vào bệnh viện. Mong cho anh biết lợi dụng dịp này mà cải thiện.

 

  • Kẻ  trộm trả của

Chị Maria Nguyễn Thị Kim, ba mươi bảy tuổi ở phường 9 Tân bình, có 10 mét vải tốt và mấy bộ quần áo, bị kẻ trộm lấy lúc nào không biết.

Ngày 6 tháng 4 năm 1982, lúc 8 giờ sáng chị đến khấn Thánh Giuse,  thì trưa đó về nhà, đã thấy gói đồ bỏ lăn trên thềm nhà, bên cạnh cửa sổ, mà kẻ trộm đã quăng vào. Mở ra thì còn đủ hết, chỉ mất có cái xích xe đạp.

 

  • Hoa ông Thánh chữa bệnh

Bà Maria Phạm Thị Bích Ngọc, 64 tuổi đường Nguyên Tấn Phát, Sài gòn.  Bị thần kinh kẹt vào xương sống đau đớn lắm, không nằm ngồi được. Như vậy đã 10 ngày, các y sĩ đều bó tay.

Sáng ngày 29 tháng 3 năm 1982. Chồng bà là y sĩ Phạm Hữu Nghi đến xin khấn.  Ông  đưa về một gói hoa khô đã trưng trước bàn thờ Thánh Cả, sắc lên cho bà uống. Bà vừa uống xong thì thấy đau bội lên, nhưng sau đó bà ngồi lên được và hết đau. Hôm sau, ông bà và các con vui mừng lên tạ ơn, dâng bó hoa với cặp bình đồng để tỏ lòng kính mến. 

(Lời bàn của linh mục Giuse: Chân phước Anrê Canada lấy dầu đền thánh Giuse mà xức cho bệnh nhân, nhiều người được khỏi. Hành động ấy biểu lộ lòng tin, đức tin đã chữa họ. Hoa Thánh Cả Giuse thiết tưởng cũng tương tự như thế).  

 

Chương ba:

BẢO TRỢ GIÁO HỘI

 

  • Cải tử  hoàn sinh

Cháu Cécilia Nguyễn Thị Bích Hường 7 tuổi, con một gia đình Công giáo tại Phú nhuận.

Tháng 10 năm 1984, cháu được đưa vào bệnh viện Điện biên phủ (Saint Paul cũ). Các bác sĩ cho biết cháu bị ung thư (basde down), mắt đã lồi ra không trông khỏi được. Cha mẹ đã lo cho cháu rước lễ lần đầu, và chịu Bí tích Thêm sức như để cho cháu dọn mình chết , mà cháu nào có hay. 
May lúc đó, có người mách đến khấn Thánh Cả Giuse tại Chí hòa. Ông bố liền đến khấn. Sau vài tiếng đồng hồ bệnh đã dần dần lùi bước. Ngày áp lễ Chư thánh cháu xuất viện. Cả y sĩ đoàn tại bệnh viện đều lấy làm lạ.  

Đến nay đã mười năm, cháu Bích Hường vẫn khoẻ mạnh, học giỏi  và ngoan đạo. 

Cước chú:  Văn phòng Đền Công chính còn lưu trữ bức ảnh của cháu Bích Hường chụp khi đó, do gia đình gửi tặng với mấy dòng sau đây:

“Cháu Cêcilia Nguyễn Thị Bích Hường lâm bịnh nhiễm trùng. Bác sĩ chẩn là bịnh nan y, gia đình đã thất vọng, chỉ còn biết cậy nhờ vào quyền thế Thánh Cả Giuse cầu bầu. Chỉ trong vònq vài tiếng đồng hồ, bịnh đã lùi bước dần dần cho đến ngày chuẩn bị mừng lễ Các thánh Nam Nữ thì cháu xuất viện”.

Người cha ký tên.

 

  • Xì  ke ma túy

Ngày 20 tháng 10 năm 1985, anh Đaminh Đặng ngọc Bích 28 tuổi, cùng với vợ, người giáo xứ Nam hòa đến cám ơn Thánh Cả.

Số là anh Bích mắc ma túy lâu năm, mỗi ngày phải chích 3,4 mũi, không có thì vật vã khổ cực lắm. Việc làm ăn cũng như việc đạo đức đều bê trễ. 

Cùng khổ quá, chị Bích nhờ người đi khấn Thánh Cả Giuse. Anh Bích kể rằng: Sau khi khấn rồi tự nhiên tôi thấy nhẹ nhõm trong người. Cơn nghiền không còn dữ dội như trước nữa. Hết bảy ngày, tôi bỏ hẳn việc chích choác. Bạn bè có đưa thuốc ra mời, tôi cũng sợ lắm”.

Sau đó, anh đã xưng tội rước lễ giữ đạo đàng hoàng, làm ăn tử tế. Người mừng nhất hẳn là chị Bích, mừng hơn chồng chết mà sống lại.

 

 

  • Người  bên lương được ơn

Giáo sư Đỗ văn Dzĩnh 65 tuổi, lương dân, ngụ tại số 54/1 Nguyễn Bình Khiêm q.1, thành phố HCM. Ngày 6 tháng 1 năm 1985, ông đến tạ ơn và kể tích sau đây: 
“Ông bị chứng tiểu tiện liên tục, đã dùng nhiều thứ thuốc, tuy có bớt mà không dứt được. Lại mới té xe xích lô, bị thương ở khuỷu tay phải, nổi bướu to gần bằng quả trứng gà. Nhờ sự mách bảo của một nữ giáo hữu, ông đến Chí hòa cầu xin Thánh Giuse và lấy bản kinh về đọc. Hết chín ngày chưa khỏi. đến ngày thứ mười hai, ban sáng thức dậy ông thấy mình khỏe khoắn. Khỏi cả hai chứng bệnh nói trên.

 

24 Honđa, cướp, cướp

Anh Phaolô Nguyễn Hưng,  33 tuổi ở Lạc Quang,  quận Hóc Môn kể lại tích chuyện sau đây:     Ngày 16 tháng 3 năm 1985,  lúc xế chiều,  tôi lái chiếc xe Honda đi trên con đường hẻo lánh,  Hương lộ 14,  gần ngã ba Bà Quẹo. 

Lúc tôi ngừng xe vào quán nước giải khát bên đường thì có hai thanh niên cũng vào. 

Sau một chặp,  một tên bỏ ra đường,  chắc để xem xét tình hình.  Còn tên kia đứng lên, cách tôi 3 mét,  chĩa mũi súng vào tôi.  Nhưng súng đó chúng dấu ở trong sắc cốt.  Mới đầu tôi không thấy,  tôi vẫn ngồi tại chỗ.  Nó bảo tôi cho nó mượn xe.  Tôi không trả lời.  Ngoài đường tên kia đã rồ ga lên máy.  Tên cầm súng định chạy ra. Tôi lăn ra nhà mấy vòng, la lớn “Cướp!  Cướp!”.   Xe đã chạy,  nó còn bắt với lại, nhưng tôi đã lăn xuống hố bên đường,  nên không hề hấn gì. 

Thế là mất xe,  một mặt tôi cớ Công An địa phương.  Một mặt tôi kêu cầu Thánh Cả Giuse.  Sau đó 23 ngày,  tức là chiều ngày 8 tháng 4,  năm 1985,  tôi đi chiếc Honda khác qua cây xăng Bà Quẹo,  đang đứng mua săng,  thì thấy hai anh  nọ  cũng  đi Honda đến đổ xăng.  Xe của tôi, chúng đã sơn sửa khác đi,  nên mới đầu tôi nhận không ra.  Nhưng vô phúc cho chúng, là vì Honda của chúng tự nhiên không nổ máy,  không chạy được,  mà tôi thì có linh tính đó là xe của mình.  Tôi liền tri hô lên,  hai đứa đều bỏ chạy.  Khi đưa xe đến Công An thì số xe đúng là số xe của tôi,  còn ghi trong hóa đơn cớ mất xe bữa trước.  Tôi liền được trả lại xe.  Còn hai tên kia là những tay bất hảo trong vùng,  đến sau cũng đã sa lưới pháp luật.

 

25 Nhà  thờ Bùi hưng

Giáo xứ Bùi hưng Biên hòa là một địa sở nhỏ, chừng một ngàn giáo dân phần đông là lao động Nhà thờ lâu năm, tường xiêu, cột mọt; hư hại 70%, chỉ chờ một cơn gió mạnh là sụp đổ, khéo nguy tính mạng con chiên.  Cha sở cũng đoàn chiên chạy đến cầu khấn Thánh Giuse, rồi cung kính đặt cây bút vào tay Người, xin Người ra tay giúp đỡ. Đồng thời cũng xin cha phụ trách đền Thánh Giuse tại Chí hòa hợp ý cầu xin.

Khỏi ít lâu được nhà cầm quyền cho phép cất lại thánh đường, Nhưng phí khoản thì sao đây? Thánh Cả Giuse đã ban kim thì cũng sẽ ban chỉ. Chẳng những con chiên trong xứ, mà nhiều người ngoài xứ cũng rộng tay đóng góp.  Sau hai năm kiến thiết, nhà thờ đã hoàn thành cao đẹp, mặt tiền tô đá rửa, trần cung thánh bằng tôn lạnh, bàn thờ cẩm thạch. Khánh thành long trọng ngày lễ Chúa Kitô Vua là bổn mạng giáo xứ. Ai ai cũng tỏ ra phấn khởi. Cha sở đã ltuyện bố cho mọi người biết:

“đó là ơn phù trợ của Thánh Cả Giuse “.

Go xứ Bùi hưng thật khéo lo,

Nhà thờ như thế, thế là to.

Người thưa của ít mà nên việc,

Ắt hẳn ơn trên đã hộ phò.

¯¯

Một mừng non nước vùng ta,

Đồng nai khởi sắc Biên hòa ngát hương.

Hai mừng giáo xứ Bùi hưng,

Gắng công xây dựng thánh đường nguy nga.

Ba mừng quí khách gần xa,

Chung tay tô điểm nhà Cha trên trời.

(cha sở là Đaminh Bùi Phúc Dinh)

 

26 Có  nếp có tẻ (có con trai, con gái)  

Chú Giuse Nguyễn Văn Sức 41 tuổi, vợ là Maria Trần Thị Thê, số nhà 41 Văn Côi Chí hòa. Gia đình này đã được sáu con nhưng toàn là gái.  

Lẽ dĩ nhiên cũng muốn có nếp có tẻ, nên đến kêu cầu Thánh Cả Giuse và thánh Antôn.  

Chúa đã nhận lời và ban cho một cháu trai, sinh ngày 24 tháng 11 năm l984 đặt tên là Giuse Antôn Nguyễn Đức Thiện. Cháu dễ nết, cả nhà đều vui mừng.

 

  • Thầy thuốc mát tay

Khắp vùng Chí hòa ai ai cũng biết tiếng thầ y tá Hiến, nhà ở bên hồ tắm Chí hòa.  

Tuy chỉ là y tá, mà từ nhiều năm nay, thầy chữa bệnh rất mát tay. Nhà không lúc nào vắng khách.  

Cách thầy chữa bệnh rất đơn giản. Có khi chỉ xem mặt, nghe lời khai của con bệnh, rồi cho thuốc. Thuốc cho vừa đủ dùng vài ngày, nếu chưa khỏi thì bệnh nhân trở lại.  Khi có ai khen thầy mát tay, thì thầy tươi cười chỉ bàn thờ Ông Thánh Cả Giuse, đầy hoa tươi trong phòng thuốc, mà nói:  

– Thánh Cả Giuse chữa đó. Đức Hồng Y Hébertô, đấng lập dòng truyền giáo Mill Hill tại nước Anh, cũng quen trả lời như thế khi có ai khen ngợi công việc của Người: “Saint Joseph did it – Thánh Cả Giuse làm đó”

 

  • Cái mốc đầu tiên

Tháng 6 năm 1954, trên đường vào Nam tôi qua Quảng-yên đến thăm nhà bác Phạm Thanh Ngạc, người bạn thân cùng làng. Thấy gia  đình có  vẻ buồn bã, vì đã có năm con gái mà chưa có con trai, nhất là Bác lại còn  là trưởng tộc. Tôi bèn  khuyên cả nhà cầu khẩn Thánh Giuse, và hôm sau là thứ Tư, tôi làm lễ khấn Ngài tại nhà thờ Quảng yên. Rồi gia đình đi vào Nam. Chín tháng sau, ngày 7 tháng 3 năm 1955, bà vợ sinh ra một bé trai, đưa đến để tôi rửa tội tại Chí hòa,  đặt tên là Giuse Phạm Thanh Nghị. 

Em này khỏe mạnh, thông minh, học giỏi, nết na, hiện làm kỹ sư tại Toronto, Canada.  Đó là cái mốc đầu tiên trên đường đi lên của tôi đối với Thánh Cả.  Từ đó đến nay, những vợ chồng hiếm muộn không con, hoặc có gái không trai, hoặc có trai không gái, đến xin khấn, phần nhiều  đã được toại nguyện. Cóđến bốn trăm trường hợp được ơn.

 

29 Thánh Giuse an ủi

Một thiếu phụ ẵm đứa con được hơn một tháng, tên là Phêrô Giuse Thịnh, từ giáo xứ Bùi Hưng, Biên hòa đến tạ ơn Thánh Cả Giuse. 

Theo lời chị, trong thời kì mang thai, chị yếu đau bệnh tật, tưởng khó mà sanh nở vuông tròn. Nhưng chị vững lòng cầu xin Thánh Cả Giuse, nay đã sanh được cháu trai khỏe mạnh dễ nuôi, lại chị cũng khỏe mạnh hơn trước. 
Đêm sau khi sanh, chị thấy Thánh Cả Giuse mình mặc áo xanh, tay cầm gậy đứng đầu giường hỏi thăm: “Con sanh nở bằng an hả?” 

Ngày 19 tháng 1 năm 1986, chị đem đem con đến Đền để dâng cho Ông Thánh và để tạ ơn Người.

 

30 Trận mưa  được mùa

Tháng ba là cao điểm của mùa khô ráo ở Ban Mê Thuật.  Nhà Dòng Nữ Vương Hòa Bình trồng được một sở cà phê năm mẫu.  Các máy bơm nước đều hư hỏng.  Mùa mưa thì chưa đến.  Cây cối thì bị nắng cháy và khô cằn.  Việc mất mùa năm nay đã thấy rõ. 

Nhân nghe nói về quyền thế của Thánh Giuse đã ban nhiều ơn lạ tại  Sàigòn.  Chị  em  liền  sốt  sáng kêu khấn Người ban cho một trận mưa để cứu mùa cà phê.  Hôm ấy là ngày 20 tháng 3 măm 1986.  Lúc 4 giờ chiều bỗng trời kéo mây đen,  sấm chớp liên hồi,  rồi một trận mưa như trút đổ xuống suốt 20 phút đồng hồ.  Nước chảy tràn trề.  Ai ai cũng đều bỡ ngỡ lạ lùng về trận mưa ấy. 

Sự việc này Đức Giám Mục Nguyễn Huy Mai cũng chứng kiến.   Nhiều người ở  Ban Mê Thuật cũng thuật lại.  Riêng các chị Dòng thì nhận biết đấy là ơn phù trợ của Thánh Giuse cứu giúp nhà Dòng sau một tuần cầu nguyện.

 

 

Chương bốn:

BẢO TRỢ LAO ĐỘNG

 

  • Ơn cảnh cáo

Chị Têrêxa Hương 29 tuổi, ở Cái Sắn, An giang, dan díu với một anh chành hình như đã có vợ. Cha mẹ chị khuyên bảo không được,  bèn cùng nhau kêu khấn thánh Giuse.  
Một hôm cô cỡi xe đi, dự định theo chàng luôn, thì giữa đường bị té, trật tay, phải bó bột Và con đường tội lỗi bị chận lại. Bà con cho đó là ơn cứu trợ kịp thời của Thánh Cả Giuse.

 

  • Ơn chừa xì ke

Bà Anna Trịnh Thị Tuyết 67 tuổi, giáo xứ Mẫu Tâm,Lăng cha cả kể tích này:

“Con trai bà là Giuse Vũ Trinh 32 tuổi có vợ con, mắc chứng nghiện  xì ke, trước thì hút, sau thí chích, đã 15 năm, người gầy guộc, gia đình điêu tàn.

Tháng 3 năm 1988, bà đến khấn Thánh Cả Giuse thì sau đó gặp được nhóm cầu nguyện tại Tân Chí linh, do cha Lộc Dòng Chúa Cứu thế làm linh hướng. Anh Sinh tới đó cầu nguyện chung với nhóm được một tuần lễ thì chừa hẳn, không nghĩ đến thuốc men nữa.  Anh đã xưng tội, rước lễ và gia nhập nhóm đó, để học Lời Chúa và cầu nguyện.  Cả nhà đều vui mừng.

 

  • Nồi cơm lại  đầy

Bà Maria Trần Thị Mừng 58 tuổi, họ đạo Phát diệm (Phú nhuận) kể tích này: Gia đình bà gồm 2 vợ chồng và 9 người con đã khôn lớn, làm nghề may quần áo thuê. Nhưng từ sau Tết không có việc làm, đã phải bán dần quần áo, quạt trần, máy móc, bát đĩa để đong gạo.

Còn 3 cái máy khâu, nếu bán nữa thì như chặt chân tay, lo lắng lắm. Vay mượn đâu cũng không được. Bà tưởng ngã lòng.

Ngày 1 tháng 5 năm 1988, bà đến khấn Thánh Cả Giuse Chí hòa, rồi ra chợ Tân bình, thì gặp một chị không quen, làm chủ sạp quần áo, sau khi nghe kể nỗi niềm, chị theo bà Mừng, đến nhà xem, rồi cho vay một chỉ (vàng) để làm hàng, rồi đưa lại cho chị bán giùm.

Ba máy khâu lại chạy reo vui. Nồi cơm lại đầy. Cả nhà vui mừng tạ ơn Thánh Cả.

 

  • Kẻ  cắp bị cầm chân

Tại nhà bà giáo Thăng, 115 Nguyễn Thông, quận 3, có nhiều khách buôn từ Bắc vào, trọ qua đêm. Một chị lương dân bỏ quên trong phòng tắm, cái túi vải trong có 2 chỉ vàng. Lúc sau nhớ, vào tìm thì mất rồi.

Bà Thăng dẫn chị đến khấn đền Thánh Giuse, thì sáng sớm hôm sau một chị bạn hàng muốn đi ra ga xe lửa mà cứ lẩn quẩn, sau phải lên bỏ trả cái túi đó mới đi được. Chị kia vào phòng tắm thấy lại của mừng lắm, liền chạy lên tạ ơn Ông Thánh trước khi về Bắc.

 

  • Mẹ  con cùng khỏi bệnh

Chị Maria Kim Loan 33 tuổi,ở giáo xứ Phú trung. Con trai chị tên Giuse Hoàng Kim Thuận 6 tuổi, bị chứng bẩm sinh bệnh dịch hoàn, động đến thì kêu đau. Chị đưa con đến khấn Thánh Giuse. Sau đó mấy ngày, cháu Thuận đang tắm bỗng kêu lên:” Hết đau rồi má ơi”.  

Còn chị thì bị sạn đường tiểu tiện, phải vào bệnh viện Tân bình hút ra, nhưng vẫn chưa khỏi. Ngày 18 tháng 4 năm 1988, chị đến khấn Thánh Cả , thì đêm đó chị thấy lọt ra viên sạn, lởm chởm những gai, to bằng đầu ngón tay, quen gọi là quả ké. Và từ đó chị khỏi hẳn.

 

  • Trẻ bị bắt cóc.

Chị Maria Trần Thị Vi Hương 29 tuổi, ở Lạc Quang, Hóc môn, Có đứa con trai 5 tuổi tên là Lê Đức Bảo, bị chị hàng xóm bắt cóc, đem đi bán cho người Nùng lấy 300 ngàn đồng.

Chị Hương không biết, thấy mất con thì đi khấn Thánh Cả Giuse , rồi chạy tìm tứ xứ, hết Sài gòn, Thủ đức, Biên hòa, chẳng thấy con đâu. 

Sau đó, chị lần lên Định quán, đi vào làng Nùng, bỗng có tiếng gọi. “Mẹ ! Mẹ !’ chị liền chạy đến ôm choàng lấy con. 
Chị tin là đã có ơn Thánh Cả dẫn đường. Còn chị hàng xóm đã đóng kịch rất khéo. Trước đó chị đã sang thăm nhiều lần và tỏ lòng thương hại. Nhưng mặt nạ đã rơi xuống, đưa chị ra trước pháp luật.

 

  • Hạt xoàn ai lấy

Bà Maria Nguyễn Thị Huỳnh 75 tuổi, ở giáo xứ Bùi Phát, Sài Gòn. Ngày 23 tháng 7 năm 1988, bà cho một bà quen mượn chuỗi hạt xoàn, đáng giá một lạng vàng. Xong việc họ đem trả thì bà đi vắng, nên gởi lại một người nhà.

Chẳng may kẻ gian thừa cơ lấy mất. Nhưng cũng chẳng biết là ai. Bà Huỳnh đi khấn các đền, nhất là đền thánh Giuse, thì đầu tháng 11, có một cô gái lạ mặt đem đến cho bà một cái hộp, mở ra thì là chuỗi ngọc của bà.

 

  • Hai bé  chậm đi

Anh Thomas Nguyễn Văn Thể 29 tuổi, ở giáo xứ Thanh Xá Bảo Lộc, có hai con song sinh thiếu tháng: Luca Nguyễn Ngọc Long và Marcô Nguyễn Bá Linh. Hai cháu cong chân không đi được. 

Sau khi khấn Thánh Cả Giuse được ít lâu hai cháu đã khoẻ mạnh, đi đứng lanh chai.  Ngày 11 tháng 6 năm 1989, anh Thể đưa hai con đến tạ ơn ông Thánh.

 

  • Mất Sách Lễ  Rôma

Nhà thờ Hàng Xanh, do cha Thomas Trần Lê vinh làm bổn sở. Hồi tháng 10 năm 1985 bị kẻ cắp lấy mất cuốn sách lễ Rôma. Cha liền nhờ bà Trọng và bà Long là kẻ có lòng kính Thánh Giuse cố gắng tìm mua cuốn khác.  Việc đầu tiên là các bà đi khấn Thánh Giuse. Lúc đó tại nhà thờ xứ Thị Nghe, có cha Giacôbê Nguyễn Trọng Trí ở hưu..  Nhân dịp đến thăm cha, hai bà có nói việc mất sách lễ, và nhờ cha có gặp đâu thì mua giùm. 

Ngày 25 tháng 7 năm 1986, lễ kính Thánh Giacôbê, các bà đến mừng lễ bổn mạng cha, thì cha trao sách lễ cho các bà, nói là tặng cha sở Hàng Xanh. Hỏi ra thì có một người lạ mặt, đem sách ấy bán cho một giáo dân Thị Nghè. Người ấy lại bán cho một dì phước. Dì này đem tặng cha Tri. Sách không ghi tên ai cả, nhưng khi đem về trình cha sở; thì người nhận ra đó chính là sách của mình.

 

  • Trúng gió  không nói được 

Chị Nguyễn Thị Bích Thủy 35 tuổi, lương dân, Phường 25 quận 10, Sài gòn. Đầu năm 1986, chị mắc chứng Trúng gió không nói năng gì được.

Đã mấy tháng, đầu nhức, chân tay tê liệt, lưỡi sưng to không nuốt, không nói. Một đêm chị nằm mơ thấy một cụ già mặc áo đỏ, cầm tay giắt chị ra khỏi chỗ nguy hiểm. Ngày kia, người nhà đưa chị đến chữa bệnh tại một cơ sở châm cứu trên đường Cách Mạng Tháng Tám, chị liền nhận ra cụ già mặc áo đỏ trong một mẫu ảnh Thánh Giuse treo trong phòng.  Chữa hơn một tuần lễ thì chị nói được, đi được. Sau đó chị xin học đạo tại Dòng Chúa Cứu Thế.

 

 

Chương năm:

CỨU NẠN CỨU KHỔ

  • Em bé  nhu xương (mềm xương)

Chị Maria Trần Thị Lý, 26 tuổi, giáo xứ Ngọc Lâm La Ngà, có một con gái sinh ngày 18 Tháng 5 năm 1985 tên là Maria Nguyễn Thị Lệ Uyển. Cháu bị tật bẩm sinh nhu xương, chân  bên phải mềm dẻo bẻ  quặt phía nào cũng được. Gia đình đã khấn Thánh Giuse tại Chí hòa thì chân cháu dần dần cứng lại và sau một tuần lễ thì khỏi.

Được mười tháng cháu đã biết đi.

 

  • Tình muộn duyên may

Chị Têrêxa Vũ Thị Liễu 35 tuổi, là giáo viên  trường Hiệp hòa, Chí hòa. Năm 1983, chị đã ngoài 30 tuổi và là con út gia đình. Cha mẹ muốn cho chị an bề gia thất, nhưng tình duyên lận đận chưa xuôi. Đền Thánh Cả Giuse ở sát trường Hiệp Hòa, chị đến kêu xin Người Sau đó chị gặp được anh Đa Minh Lê Ngọc Kim 39 tuổi, mới đi học tập cải tạo về. Anh có nghề thợ mộc, sống với một mẹ giàSau khi tìm hiểu nhau, anh chị đã nên vợ chồng theo phép đời phép đạo. Anh là con một, bà cụ muốn có cháu mà lâu rồi chưa thấy tin  mừng. Chị lại kêu van Thánh Cả, xin Thánh cho một mụn con. Lần đầu thai bị hỏng, lần sau sinh được cháu trai ngày l0 tháng 6 năm 1985, tên là Giuse Lê Vũ Quốc Anh. Cháu khỏe mạnh, dễ nuôi, dễ dạy. Đến sau chị còn sinh được một trai, một gái nữa. Tháng 7 năm 1992, trước khi đi nước ngoài theo diện  Sĩ quan học tập, anh chị và các con đến tạ ơn Thánh Cả,và dângmột cây tùng trồng lưu niệm.

 

  • Xe mất lại thấy

Chú Antôn Nghĩa ở sát hồ tắm Tân bình, đường Cách Mạng Tháng Tám, chú có mở sân giữ xe cho khách. Chiều ngày Chúa nhật kia, xe gởi chật nhà. Về khuya,một chàng đưa vé số  127  để lấy xe thì xe đã mất. Sau khi thương lượng về gía xe, chủ nhà bằng lòng đền một nửa, chủ xe cũng đồng ý.  Hai bên cam kết, nếu tìm lại được xe thì chủ xe sẽ trả lại số tiền đền. Sáng hôm sau, chú Nghĩa đi lễ kêu cầu Thánh Giuse giúp đỡ, còn chủ xe đi hỏi các nơi bán xe cũ. Đến ngã sáu Phù Đổng thì gặp thấy xe. Anh đưa giấy chủ quyền xe ra, chủ tiệm biết mình có lỗi, nên chỉ lấy một nửa số tiền giá xe đã mua. Ngày thứ ba, chủ xe dẫn xe đến gặp chú Nghĩa và xin trả lại một nửa số tiền đã nhận.

 

  • Cuốn sách li kì

Cách đây 50 năm, khi còn ngồi trên ghế Chủng viện, tôi đã đọc Truyện tu sĩ Andrê, rất thích thú, và nhờ đó thêm lòng kính mến Thánh Cả Giuse. Vì thế những năm thập kỷ 80, tôi rasức tìm cuốn  tiểu  sử  của  Thầy  mà không được. Hỏi mượn các thư viện trong nước thì không có. Nhờ thân nhân ở nước ngoài gởi về thì không được. Thôi đành thúc thủ.

Bỗng chiều ngày 3 tháng 10 năm 1986, Có người gửi tặng cuốn “Tu Sĩ Anđrê,Tông đồ Thánh Giuse” bằng tiếng Pháp Sách in đã lâu nhưng còn như mới, chưa có vết tay, vết mực. Đó là quà  của anh  Đinh  Công Tường, Đông y sĩ ở 463 đường Cách Mạng Tháng Tám, TP H. Chí Minh, tình cờ mua được ở một quầy sách cũ bên lề đường.

Tôi mừng quá, đọc một hơi rồi dịch sang Việt ngữ, hơn một tháng là xong. Tôi coi đây là  món quà quí của Cha Thánh Giuse và Chân Phước Andrê dành cho Tôi. Xin hết lòng cảm tạ Cha Con Thánh Cả. Lm. Giuse Maria.  

  

  • Khỏi gẫy cột sống

Nữ tu Imelda Na 60 tuổi dòng Mân Côi phục vụ tại Long hương, Long thành. Chẳng may té võng, gẫy cột sống, không ngồi , không đứng, không đi được nữa, chỉ nằm bằn bặt thôi. Ai cũng tưởng khó mà bình phục. 

Chị kêu cứu Thánh Giuse thì sau mười ngày, chính ngày lễ Thánh Cả 19-3- 1984, chị bắt đầu đi được, để lên nhà nguyện dự lễ ta ơn Thánh Cả. Và sau một tháng chị đã hoàn toàn bình phục để trở về nhiệm sở.

 

  • Ơn báo động kịp thời

Chị Maria Dung 40 tuổi, ở Thái Hòa được ơn như sau:
Sáng sớm ngày 16 tháng 5 năm 1987, vợ chồng chị cùng cha mẹ đi dự lễ tại nhà thờ Thánh Mẫu Chí hòa như thường lệ. Lúc lễ vừa bắt đầu, chị tự cảm thấy sốt ruột liền bỏ ra về, không có lý do gì cả.

Vừa đến trước nhà, chị thấy một xe đạp dựng đó, và hai chàng trai đầu chải bóng, quần áo bảnh bao đang gạy cửa sắt.  Chị Dung la lên “Các anh làm gì thế ” Hai tên liền gạt chị ra, nhảy lên xe đạp dông mất.  Cả nhà đều vui mừng coi đó là có ơn  thúc giục của Thánh Giuse, mà cả nhà đều sùng kính. Trong nhà phòng trước là hiệu sửa đồ điện, phòng sau có hai xe Cub mới toanh. Hai chàng tưởng được món bở, nhưng đã bị mất ăn.

 

  • Ông cụ ấy là ai

Một chị Công giáo lấy chồng bên lương, đã được hai con đều cho chịu phép Rửa tội. Nhưng người chồng thì không muốn nhập đạo. Nhân bị chứng sốt rét  ngã nước chữa mãi không khỏi, anh mới nói: nếu đạo chữa khỏi thì anh tin.

Đêm nọ, anh mơ thấy một cụ già chống gậy, bồng em bé đến bảo anh: “Ta sẽ chữa cho con khỏi”.  Thức đậy, anh hỏi bố vợ: “ông cụ đó là ai mà có phép chữa con khỏi bệnh”.  Ông  bố vợ liền nói về Thánh Giuse. Sau đó anh khỏi bệnh, liền học giáo lý và đã được rửa tội, đặt tên Thánh là Giuse để nhớ ơn muôn đời.

 

48 Cháu trai nối dòng  

Anh Vũ Đức Kiên, 40 tuổi, vợ là Nguyễn Thị  Dung 36 tuổi giáo xứ Nghĩa Hòa,Tân Bình. Anh Kiên đã có đời vợ trước, được năm con gái. Sau khi vợ chết anh chắp nối với chị 
Dung mong rằng sẽ có con trai, nhưng  lại thêm được hai con gái nữa. Vị chi là bảy cô nàng. Cả họ buồn bã, vì anh là con trai  duy nhất của gia đình.  Anh  như hoàn  toàn thất 
vọng, đay nghiến vợ con, không tin ở hiệu quả lời cầu nguyện nữa.

Phần chị Dung thì vững lòng trông cậy.  Hằng tuần, ngày thứ tư, chị đến tòa Thánh Giuse cầu nguyện. Trong khi ấy, cả nhà chị gièm pha. Thấy chị có thai, họ bảo; lại con gái nữa cho mà xem.  

Ngày chị  đi  sinh, không  ai thèm ngó ngàng. Lúc sinh ra con  trai,  báo tin vềgia đình, chồng cũng không tin. Ba ngày sau anh  lên thăm, ẵm bế con thì mới nhận ra là đúng thật. Tên cháu là Giuse Vũ Đức Thạch.  Cả họ vui mừng và thêm lòng mộ đạo.     

 

  • Gương vỡ  lại lành 

Một gia đình chồng đạo gốc, vợ tân tòng, đã có hai con. Ba năm nay anh chị lìa nhau họ hàng khuyên bảo hết cách mà vô hiệu. Hai con ở với cha tại nhà ông bà nội. Thỉnh thoảng  chị có về thăm con, mặc dầu hai bên đã có án quyết ly dị.  Bà mẹ chồng nghe tiếng Thánh Cả thì đi khấn, cách ít ngày anh chồng tự tìm đến gặp cô vợ để dàn hòa, và ngày đoàn tụ đã được tổ chức thân mật linh đình gần như ngày cưới. Cảm tạ Thánh Cả Giuse muôn đời. 

(Linh mục Giuse ghi ngày 13 tháng 6 năm 1987, theo lời bà mẹ chồng)

 

  • Nạn xe cảnh tỉnh

Ở Củ Chi có một chị, chồng ở xa,  mà giao du với một chàng trai trẻ, gương xấu đồn cả làng trên  xóm dưới.  Có giấy phép đi  đoàn tụ với chồng mà chị không muốn đi. Ai khuyên can cũng không được. Một nữ tu thấy thế thì kêu cầu Thánh Giuse phá sự dữ đi. 

Cách chừng nửa tháng, hai anh chị đi một Honda, trên đường Tây Ninh – Sài gòn, xô mạnh vào một xe vận tải đậu bên lề. Anh ta giập đầu bất tỉnh, rồi tắt thở. Chị ta bồi hồi, lo sợ trở lại đường công chính, rồi đi đoàn tụ với chồng.  Khắp vùng Củ chi ai biết tích này cũng đâm rợn, lấy đó làm bài học để răn mình. 

 

Chương sáu:

CỨU CHỮA BỆNH NHÂN

 

  •  Đỗ không kết trái

Sau ngày giải phóng (30-4-75),  một nhóm nữ tu tại Củ Chi, trồng tỉa một mảnh vườn để nuôi nhau. Gia đình kế cận chiếm mất một khoảnh, đòi mãi không chịu trả.  Chị tu sĩ trưởng  đến  khấn Thánh Giuse tại Chí hòa. Sự việc xảy ra là, đậu họ trồng chỉ sai hoa, mà không đậu trái. Trước sự kiện đó, vợ chồng anh hàng xóm hồi tâm, nghĩ là mình làm quấy mà bị phạt, nên xin hoàn đất lại cho chị em.  Nhưng chị em nghĩ tình, nhường lại cho một phần, bảo làm ăn tử tế thì sẽ trúng. Còn phần mình, chị em trồng mấy trăm cây dừa, để yên chuyện về sau. 

  •      
    Vì cháu, ông được đạo

Bà Maria Trần Thị Mát  59 tuổi, Giáo xứ Nam hòa đã kể tích  sau này: Bà có người con gái tên Maria Bùi Thị Lan, kết hôn với một anh tân tòng, tên là Giuse Trần Khánh Hòa, hiện ở Bang Texas, Hoa Kỳ.

Anh chị thành hôn đã tám năm mà chưa có con, nên viết thư xin mẹ kêu khấn Thánh Cả tại Chí Hòa.  Kết quả là cuối tháng 4 năm 1987 chị đã sinh một bé trai, đặt tên là Giuse Tràn Quốc Duy.  Ông bà nội hiện đang ở trong nước, được tin mừng lắm,  và nhờ ơn Chúa tác động, đã quyết tâm theo đạo.

 

  • Kẻ  cắp tự tố

Chị Anna Lưu Ngọc Oanh , 30 tuổi, giáo xứ Tân Chi Linh kể tích này: Chị mất chiếc đồng hồ đeo tay, có hồ nghi cho đứa cháu tên Khoa ở cùng nhà, nhưng nó chối dài.  Chị cùng cả nhà hợp ý kêu cầu Thánh Cả Giuse.  Chiều hôm đó tan học, Khoa không về ngay, nhưng nhờ đứa bạn đem cặp về giùm.  Bà Oanh hỏi lý do thì nó nói: Anh khoa mắc đi bán đồng hồ trên phố. Thế là đã rõ ràng. Lúc Khoa vừa ló mặt về, bà Oanh nẹt, thì nó thú đã bán được 4000 đồng, hiện tiền đó nó còn nắm trong tay.  Bà bắt nó dẫn bà đến hiệu xin chuộc, và chịu thêm 200 đồng tiền lời nữa.

 

  • Viêm khớp mãn tính

Giáo  sư Phêrô Trần  Ngọc Cư,  88 tuổi, giáo xứ Phú Trung Tân Bình, mắc chứng viêm khớp mãn tính  trên 20 năm, đau nhức, đi lại khó khăn, đêm không ngủ được. 

Sau khi khấn Thánh Giuse được 5 tháng thì bớt dần , rồi  khỏi hẳn , chạy nhanh được. Xin cám ơn Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse.  Giáo sư Cư là nhà trí thức; đã từng hoạt động trong ngành học chính.  Sự nhận định của ông phải là  chín chắn, đáng tin.

 

  • Mất một  được hai

 Chị Maria Lê Thị Thu Hằng 30 tuổi, giáo xứ Nam  Hòa, bị mất  xe đạp  tốt. Cô nghi  cho người bên cạnh, nhưng không dám nói. Chị đến khấn Thánh Giuse thì linh mục phụ trách bảo: “Nếu không thấy thì Ông Thánh Giuse sẽ bù cho”. Khi về chị mua hai tấm vé Đồng tháp, trúng một số tiền đủ để mua hai xe đạp tốt. 

 

  • Khỏi bệnh được đạo

“Thưa cha, ngày trước cha dặn: khi nào cháu Tuấn lên mười hai tuổi thì dẫn đến thăm cha”. Một người đàn ông cỡ bốn mươi tuổi, đến gặp tôi tại tòa khấn ThánhGiuse và nói thế. Tôi bỡ ngỡ hỏi: Câu chuyện thế nào mà tôi lại dặn thế?

–      Tôi là người lương, cũng ở Phường 7 Tân bình này, cách đây đã lâu, cháu Tuấn bị chứng sốt rét xuất huyết nguy kịch.

Tôi đã đem cháu đến đây kêu khấn thì cháu được khỏi. Như đã hứa, tôi đã cho cháu tòng giáo, tên Thánh là Giuse. À ra thế. Rồi tôi hỏi cháu Tuấn: 

–      Con có đi lễ Chúa nhật không? Đã xưng tội rước lễ lần đầu chưa?

–      Thưa cha con vẫn đi lễ Chúa Nhật, và đã được xưng tội rước lễ vỡ lòng.

Sau đó, người cha còn xin thêm một ơn khác và hứa cả giả đình sẽ nhập đạo. Cảm tạ Thiên Chúa và Thánh Cả Giuse.

 

  • Viên ngọc hình Phật

Chị Maria Thịch 46 tuổi, Giáo xứ  Ngọc đồng, Hố nai  kể tích sau này: “Trước  đây chị có nhận một món nữ trang bằng đá ngọc, hình ông Phật, đáng giá một lạng vàng. Chị bỏ vào túi xách, ghé một đôi nơi, về tới nhà thì thấy mất rồi.  Chủ của đòi bồi thường, chị chịu một nửa lạng vàng mà không xong.  Chị chạy đến khấn Thánh Giuse, thì chừng nửa tháng sau lại thấy món nữ trang đó trong túi xách của chị. Có lẽ kẻ cắp bị lương tâm cắn rứt đã lén trả lại chị như vậy.  Chị tin vào sự giúp đỡ của thánh Giuse, nên đã đến tạ ơn.

  •   
    Trẻ  viêm màng não  

Chị Maria Nguyễn Thị Phương,  34 tuổi xứ đạoTân Phú, Tân bình. Con gái chị tên là Maria Nguyễn Minh Bảo Trâm 4 tuổi,  bị chứng đau màng não lúc được 7 tháng.  Cháu bị co giật không đi không nói được, chỉ nằm bần bật thôi.

Sau khi khấn Thánh Cả, thì ngay hôm sau cháu ngóc đầu lên được, cách một năm, cháu đi lại bình thường, và khôn như các trẻ đồng trà, nhưng còn tính thất thường, hay nổi xung la  hét.  

Xin Thánh Cả đã thương thì thương cho trót.  Gia đình hết sức tạ ơn.

 

  • Tấm  Bảng Tạ Ơn

             u

Tạ ơn Thánh Giuse 

1- 1 – 1992 

Đậu Văn Công – Thanh Hóa 

             u  
Ai đến kính viếng tượng đài Thánh Giuse tại Bảy Hiền Tân bình, cũng chú ý đến tấm bảng tạ ơn trên đây, bằng đá Thanh Hóa, từ Thanh hóa gửi vào. Số là chú Đậu Văn Công cán bộ  tỉnh Thanh Hóa, năm 1991 vào thành phố Hồ Chí Minh ba lần mỗi lần một tháng, để lo mua hàng cho tỉnh Thanh hóa đáng giá 1 tỷ 500 triệu đồng mà không xong. 

Lần thứ ba, tháng 12  năm 1991 , chỉ còn ba ngày nữa là hết mà công việc cũng chưa đi tới đâu. Anh nóng lòng lắm, may có một người bạn mách cho anh, anh liền đem bông đến kêu cầu Thánh Giuse giúp đỡ, ba ngày luôn,  đến ngày thứ ba là 31 – 12- 1991 thì anh được cấp giấy mua hàng. Để tỏ lòng biết ơn, anh đã đặt làm tấm bia này bằng đá Thanh hóa và làm tại Thanh Hóa.

 

  • Trẻ  Tắc ống mật

Bé André, tám tháng, bị tắc ống mật, phân thuốc trắng như phân cò. Bác sĩ điều trị cho biết cứ sáu trẻ bị thì năm đứa chết. Bệnh này khó mà qua được. Nếu dùng thuốc không hết thì phải giải phẫu. Cha mẹ nghe vậy khóc như mưa.  

May có người mách gia đình đi khấn Thánh Giuse thì bé liền khỏi, bài tiết bình thường. Bác sĩ cùng lấy làm lạ. Cước chú: Trên đây chỉ là một số nhỏ các ơn do Thánh Cả cầu bầu, còn nhiều tích không chép vào đây, vì tế nhị sợ động chạm, hoặc vì nó cũng giống như các tích trước, cũng có khi vì vội không kịp ghi. Chỉ thấy rằng Thánh Cả mỗi ngày càng tỏ ra linh ứng, quảng đạt. Xin tạ ơn ngợi khen Chúa Kitô, đã dùng Thánh Cả mà bang trợ hồn xác chúng con.  
Linh mục Giuse Maria Châu Thủy.

 

 

Chương bảy:

CỨU THOÁT TỘI NHÂN

 

  • Bệnh lâu năm  được khỏi 

Bà Maria Lê Thị Lương, 86 tuổi, giáo hữu xứ Tân định, Sài gòn kể lại tích này: Tôi là người Sài gòn, ít  quen chịu lạnh. Năm 1925, chồng tôi đưa tôi ra Bắc vào giữa mùa Đông. Tôi liền bị nhiễm lạnh,  mỗi tháng nóng lạnh ba lần, suốt sáu mươi năm, không thuốc nào trị được. Năm 1981, tôi đang cơn sốt nặng, thì có người nói cho hay,  tại Chí Hòa có tòa khấn Thánh Giuse linh lắm.  Dầu trời đã tối, tôi cũng cố đi. Tới nơi, cha phụ trách đưa tôi đến quỳ trước bàn thờ, rồi trao cho bản kinh khấn Thánh Giuse Bảo trợ những vụ khó khăn.  Đọc mới được nửa kinh trong người thấy dễ chịu. Đọc hết kinh thì tôi hết bệnh cho đến ngày nay. 

 

  • Con cầu tự

Anh Trần Đức Hiến, 38 tuổi và chị Nguyễn Minh Nguyệt 32 tuổi, giáo xứ Phú Bình, Sài gòn, kết hôn đã lâu mà chưa có con.  Họa vô đơn chí. Đến khi cô mang thì thai lại ở ngoài dạ con.  Ngày 14-12-1982 chị phải giải phẫu lấy thai ra, lại cắt mất một buồng trứng. Đồng thời bác sĩ nhận ra chị lệch tử cung nên tưởng khó còn khả năng sinh nở.  Không nản lòng, anh chị kêu cầu Thánh Giuse.  Sau đó, ngày 27-8- 1985 chị sinh được con trai khoẻ mạnh, dễ nuôi.  Từ đó anh chị không được thêm con nào nữa. 

 

 

  • Xin một  được hai

Ngụ tại tiểu bang Texas Hoa Kỳ, anh Gioan Tin và chị Têrêxa Cần đã trên 40 tuổi,  kết hôn với nhau 10 năm, dùng đủ thứ thuốc mà chưa có con.

Năm 1988, anh chị biên thư về thân mẫu của chị ở giáo xứ Tân Chí Linh nhờ đến kêu cầu Thánh Giuse ở Chí hòa, vì trước đây chị đã từng được ơn của Người. Cách ít  tháng chị có tin mừng và ngày mồng 05-03-1989 đã sanh được hai cháu, một trai một gái. Được quá sự cầu xin.  Hết sức vui mừng.  Tên hai cháu là Giuse Tài và Maria Dung. Ngày 28-8 1989, bà ngoại đã đến tạ ơn.

 

  • Bệnh hiểm nghèo  được khỏi

Anh Phaolô Nguyễn Anh Đức, tân tòng 37tuổi, ngụ giáo xứ Thái Hòa.  Anh bị một chứng bệnh hiểm nghèo, là bệnh quai bị chạy xuống hạ nang, đau đớn lắm, không đi lại được. Theo  lời bác  sĩ, bệnh này phải chữa trị dài ngày, và có thể ảnh hưởng  đến việc sanh con về sau. Anh lo lắm, chị vợ liền chạy đến kêu cầu Thánh Giuse. Chừng vài ngày sau đã thấy bớt, và sau chừng một tuần lễ thì khỏi hẳn, như thư cảm tạ của anh sau đây:

Thái hòa ngày 6-  9- 1989  

Kính thưa cha,

Con là Phaolô Nguyễn Anh  Đức.  Vừa qua, con bị mắc một cơn bệnh, theo bác sĩ khám thì phải chữa trị dài ngày. Con lo lắng và đã đến nhờ cha khẩn cầu Cha Thánh Giuse cho con được mau khỏi bệnh, và đã được Cha Thánh nhận lời, chỉ sau mấy ngày con đã khỏi hẳn. Nay con đến trình cha. Xin cha tạ ơn ông Thánh Giuse cho con.  

Kí tên Phaolô Đức

 

  • Đèn là đèn Trung thu

Gia đình ông Tiền, giáo xứ Nghĩa Hòa quen làm đèn trung thu. Năm ấy ông đã làm mười ngàn chiếc đèn đủ kiểu đủ cỡ. Trung thu sắp tới nơi, mà chưa có khách ăn đèn như mọi năm, có lẽ vì kinh tế đô thành trì trệ. Ông liền chạy đến kêu cầu Thánh Giuse thì mấy giờ sau có người đến lấy ba ngàn năm trăm đèn. Cách vài ngày thì bán hết chỗ còn lại. Tất cả là mười ngàn chiếc. Trong khi có vựa đèn khác còn đọng lại rất nhiều.

 

  • Được minh oan 

Chú Gioan Trần Tế 45 tuổi, xã Tân Sơn Nhì ,  chú  là  trưởng hội Thánh Giuse  trong giáo xứ. Cách đây khá lâu, người chị dâu nhờ chú giữ  giùm mấy lạng vàng lá.  Chú đã  trao trả đủ được ba năm. Nay chủ phát hiện vàng bị cắt xén mỗi lạng một ít,  liền đổ sống đổ chết cho chú làm chú đau bệnh cả tháng.

Cực quá chú đi kêu cầu Thánh Giuse tại Chí hòa. Tình cờ có một chàng trai nói cho chú biết, là tên Lập, con của chủ  của đã lén cắt xén trộm vàng của mẹ đem bán tiêu xài.  
Chú Tế đem việc đó nói cho bà mẹ hay. Mới đầu  tên Lập còn chối.   Nhưng khi  chàng trai kia đứng ra thú nhận mình đã  đem vàng đi bán,  bấy giờ tên Lập mới chịu nhận tội. 
Được minh oan, gia đình chú Tế vui mừng đến tạ ơn.

 

67 Kẻ  được gọi giờ sau hết  

Ông già họ Trương trạc chừng 70 tuổi, ông không theo một tôn giáo nào.  Nhưng lại chung sống với một người phụ nữ Công Giáo. Bà này tuy lỗi luật hôn phối nhưng vẫn còn giữ được đức tin. Con cái cũng giữ đạo mẹ một cách sốt sáng. Mới đầu ông Trương hay xoi mói việc đạo,  nói động đến Thiên Chúa. Cũng có lần ông thắc mắc về việc kính Thánh Giuse ở tại nhà riêng của Linh Mục Giuse.  Nhưng ngài vẫn giữ một mực thinh lặng. Khoảng năm 1982,  gia đình ông gặp phải nhiều cảnh rủi ro: Một người con mất hết giấy tờ quan trọng, mà không tìm được. Bà mẹ đến đền thánh cầu khẩn Thánh Giuse,  thì đêm hôm ấy có người gõ cửa đem trả lại giấy tờ. 

Cách ít lâu sau,  người con trai lớn bị câu lưu,  vì gây ra tại nạn lái xe hạng nặng.  Bà lại đến kêu cầu Thánh Giuse,  thì cách ít lâu cậu con trai được thả về. 

Thấy hai tích này xẩy ra trong gia đình,  đã làm cho ông Trương động lòng.  Sau hết,  trong thời gian hưu trí ở nhà gặp nhiều điều bất trắc xẩy ra cho gia đình,  ông suy nghĩ sự đời đen bạc và suy đến niềm tin đắt lời của vợ con,  ông liền sang nhà bên cạnh xin một cụ già Công Giáo hướng dẫn mình theo đạo Chúa. 

Sau một thời gian ông được chịu Phép Thánh Tẩy, đặt thên thánh là Phaolô. Sau đó không lâu, ông già Phaolô Trương đã được về nhà Chúa cách êm đềm.

 

  • Chừa nghiện rượu

Anh Gioan Nguyễn Văn Vy, 27 tuổi , thợ mộc còn  độc thân.  Anh làm việc siêng năng, sống đạo tốt. Nhưng đêm nào cũng đi uống rượu với bạn bè, say khướt, không ai khuyên bảo được.

Người chị thấy vậy đi kêu cầu Thánh Giuse.  Chỉ một hai ngày sau là anh thôi, không đi uống rượu nữa.   

 

69 Bệnh từ  khi mới sinh được khỏi  

Chị Maria Mai thị Phước Lan, 25 tuổi,  ở Giáo Xứ Hòa Hưng,  bế đứa con trai hai tuổi,  tên là Giuse Nguyễn Hoàng Long đến tạ ơn Thánh Giuse. Số là chị hiếm muộn,  lấy chồng hai năm mà chưa có con. 

Trước đây chị đã kêu khấn Thánh Giuse, để xin cho có con trai, vì chồng chị  là người  tân  tòng, chị  ao ước được như vậy. Sau đó chị đã sinh được con trai như ý muốn. Nhưng  cháu nhỏ từ lúc sinh đã mắc chứng bệnh  gan tắc ống mật,  bác sĩ cho biết là khó mà nuôi được cháu. Số sống chỉ còn mười phần trăm và cháu sẽ phải giải phẫu. 

Hàng tháng chị phải ãm con lên nhà thương để khám bệnh. Trong lúc khổ sở, chị nhớ đến Thánh Giuse đã ban ơn cho mình. Chị liền đi cầu xin Ngài thương đến cháu. Quả nhiên, lần khám bệnh này,  bác sĩ rất bỡ ngỡ vì thấy cháu đã khỏi,  không cần mổ nữa. Trước kia cháu gầy còm ốm yếu,  ghẻ lở bao nhiêu,  thì nay cháu trở nên khỏe mạnh,  tốt đẹp bấy nhiêu. Ai thấy cũng khen cháu khỏe đẹp. 

    
70 .Đối đầu với ma quỷ  

Thánh Giuse là Đấng các ma quỷ sợ oai. Ma quỷ có lúc tự nó, có lúc dùng tà thuật, bùa ngải, thư ếm mà  hãm  hại  hồn  xác người ta. Năm 1973, Thượng Tọa Thích Thiện Đức trụ trì chùa Giác Đạo, Hốc môn, xin tong Giáo, tên thánh là Giuse.  Ban đêm thường bị quấy phá bởi những bàn tay  vô hình. Các tượng trong chùa đều động đạc. Võng thầy nằm biến thành con trăn lớn toan nuốt sống thầy.  Sau khi cầu xin Thánh Giuse phá sự dữ, chúng tôi rảy nước thánh trong chùa thì yên. Ban đêm mỗi lần động đạt, thầy cũng làm như vậy thì có công hiệu ngay.  Thầy bền chí chống cự cho đến khi về chầu Chúa, dịp lễ Giáng Sinh 1973.(Nhật ký họ Thánh Giuse Mỹ hòa)

 

Chương tám:

DẪN ĐƯỜNG NHÂN ĐỨC

 

  •  Thấy đồ vật đã mất

1- Bà Martha Tám, 64 tuổi, giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mất tờ hộ khẩu đã một tuần lễ tìm không thấy, đã tưởng phải báo cáo với Công an. Nhưng nhớ đến Thánh Giuse, bà liền đến khấn tại Chí Hòa, Cha phụ trách tòa khấn nói là không mất đâu.  Quả nhiên ngày hôm sau thấy tờ hộ khẩu từ trong kẹt tủ rơi xuống đất.

 

2- Nhà chụp ảnh Đông-phương ở Chí Hoà, thất lạc tấm ảnh gốc của khách đưa đến phóng đại để thờ Tổ. Mà là tấm ảnh cũ duy nhất còn lại trong gia đình.  Biết phiền phức chừng nào. Các ngăn các hộc đã lục hết mà không thấy.  Bà chủ hiệu chạy sang đềnThánh Giuse kêu khấn. Vừa về đến nhà thì thấy tấm ảnh nằm sờ sờ giữa ngăn kéo của cái bàn trước mặt.  Còn nhiều tích thấy đồ vật như vậy. Không biết có phải Thánh Giuse tìm cho, rồi để vào chỗ đó chăng?

     

  • Trẻ  em được khỏi bệnh

1- Cháu Micae Vũ Huy Cường, 13 tuổi, ở Ngọc hà, Vũng tàu, Chân bên phải kẹt Honđa trút hết da lòi xương, không đi được nữa. Mẹ đưa con vào Sài gòn chữa trị. Bác sĩ cho biết là bị lao xương, phải giải phẫu. Nhà  nghèo chưa biết phải làm sao. Chị liền đưa con  đến cầu nguyện tại tòa khấn Thánh Giuse Chí hòa. Về đến nhà trọ  thì  cháu đi  được ngay. Thế rồi dần  dà vết thương lành hẳn, đi lại bình thường. Trước khi về nhà mẹ con đã đến tạ ơn ông Thánh.

 

2- Chị Maria Nguyễn Thị Phương, 36 tuổi, giáo xứ Tân  hòa, dẫn  con là Maria Nguyễn Minh Bảo Trâm, 6 tuổí, đến tạ ơn 
Thánh Cả. Cháu Trâm lúc được 17 tháng, thì bị viêm màng não dị chứng, không cất đầu lên được. Chị đưa con đến đặt trước bàn thờ Thánh Giúse mà cầu nguyện. Về đến nhà thì cháu cất đầu lên được, rồi dần dần biết ngồi, biết đứng, biết đi, biết nói, tuy tính cháu còn chưa được bình thường. 

 

  • Chừa nghiện ngập

1- Chị Maria Nguyễn thị Thơm, 33 tuổi, ở giáo xứ Tân hòa, chồng là Phêrô Nguyễn Văn Thành 36 tuổi, mắc tật nghiện rượu đã lâu năm, hay gây gỗ trong gia đình, lại đang thất nghiệp.  Chị đi kêu khấn Thánh Giuse được ít ngày, thì anh nghĩ lại và thôi không uống nữa. Lại được bạn hữu rủ đi làm ngay. Cả gia đình vui mừng,  tối nào cũng đọc kinh Mân Côi và kinh Thánh Giuse để tạ ơn Chúa.

 

2- Anh Vinh Sơn Nguyễn Chí  Ngọc 35 tuổi, xứ đạo Tam hà Thủ đức. Mắc nghiện xì ke đã mười sáu năm, lúc nặng nhất mỗi ngày chích hai lần.  Nhờ lời cầu bầu của Thánh Giuse mà chị vợ kêu khấn, anh đã dứt được mười tháng. Lúc đầu cũng bị nó hành lắm, nhưng nay đã được bình an.   Ngày 5 -11-89 vợ chồng anh đã đến tạ ơn.

 

  • Những tích mất xe 

1- Một gia đình nghèo mới sắm được chiếc xe đạp, bị trộm ban đêm vào nhà lấy mất. Lùng kiếm đã hai tháng mà không ra. Bà mẹ đến kêu sau Thánh Giuse. Cách ít ngày, bà ấy thấy có người dắt một chiếc xe đạp màu xanh. Hỏi ra thì một cô gái Lâm đồng về Sài gòn học nghề, mua phải xe gian mà không biết. Đang lúc cô ta đi trên đường thì con bà  nhận ra xe, liền túm được đưa vào công an  và  lấy lại được xe.

 

2- Chị Têresa Đỗ Thị Âu Ca, 34 tuổi, giáo xứ Thái hòa, có cái xe Club thượng hạng, bị người anh em họ từ Hà Đông  vào chơi, thừa cơ đánh cắp đem về Bắc. Lại lấy cả thẻ chủ quyền  xe và chứng minh nhân dân của chị. 

Ngày 25 – 10 – 1989 chị đi kêu cầuThánh Giuse. Sau ba tuần lễ thì có thơ ông bố anh ta nhắn chị ra nhận lại xe và các giấy tờ cần thiết nhằm ngày 25-11- 1989, đúng một tháng kể từ ngày mất xe.       

     

  • Gia đình tan rã được tái hợp

Mấy đời gương vỡ lại lành

Bát nước đổ xuống sao làm đầy đây? 

Chú Antôn họ Đinh đã có hai con ở Sài Gòn. Từ năm 1974, chú lên làm ăn ở Pleiku, lại  giăng mắc với một phụ nữ khác, sinh ba con, và từ đó như bỏ bê gia đình chính thức.    
Tuy vậy, bà vợ và hai con vẫn cầu nguyện  cho chú trước tòa Thánh Giuse. Xảy ra là cô vợ theo, là người giáo hữu biết điều, đã khuyên chú trở về  với gia đình, còn con cái cô chịu trách nhiệm nuôi dạy, không đòi hỏi chi cả.

Nhờ vậy mà chú đã dứt tình ra được, để trở về đoàn tụ với vợ con chính thức. Thời gian đầu, chú còn nhớ nhung, thương tiếc, chưa dọn mình xưng tội được. Nhân dịp cuối năm 1989, có lễ cưới của con gái, chú đã đến xưng tội trước tòa khấn Thánh Giuse để đồng thời tạ ơn Người.   
Từ đó về sau, chú sống đạo tốt lành.

 

  • Ơn đoàn tụ  cho một gia đình lương dân

Anh Châu Văn Dũng 35 tuổi thuộc tôn giáo bạn ở Chí hòa. Một hôm bế con trai ba tuổi tên Châu  Văn Sỹ đến tòa Thánh Cả  xin ơn đoàn tụ gia đình. Số là chị Đặng thị Hoạt, vợ anh vì một cơn tức giận, đã bế con về Bắc ở với cha mẹ. Mấy lần anh ra đón cũng không chịu về. Anh đành nhận đem con về nuôi.  Cảnh gà trống nuôi con thật là cơ cực. Họ hàng nhà gái dường như cũng muốn cản trở việc đoàn viên. Nghe xong, linh mục phụ trách tòa khấn nói là ông Thánh sẽ thay đổi lòng chị.

Quả nhiên ngày 05-01-1990 anh nhận được thư của vợ đề ngày 25- 12 -1989. Trong thư, chị xin lỗi chồng, mời chồng đem con ra chơi ăn Tết, rồi cũng nhau về Nam.       

 

  • Tìm thấy trẻ  lạc

1- Chị Maria Nguyễn Thị Lệ Thu ở Chí hòa, có đứa con trai hơn ba tuổi tên  là Philiphê Lại Quốc Hùng, sáng ngày mùng ba, tháng 1 năm 1990 cháu chơi trước nhà, rồi dông mất, không biết đi đâu. Sáng hôm  sau  chị đến  khấn Thánh Giuse, rồi đi tìm tòi mà không thấy. Tình cờ có cô hàng xóm bên nhà chị, đi làm răng tại khu nhà thờ Ba Chuông  nghe cô đang nói chuyện em bé cùng xóm đi thất lạc, thì một ông lớn tuổi cũng đến chữa răng, cho biết hiện nhà ông đang giữ một đứa nhỏ do công an đem gởi. Nhà ông ở Tân Sa Châu.

Được tin chị Thu tức tốc sang nhận con vào chiều ngày 5 tháng 1 – 1990. Hai mẹ con cùng khóc vì vui mừng.

 

2- Anh Giuse Nguyễn Văn Quang, xứ Kinh Nhượng, Phú Giáo. Có đứa con trai Giuse Nguyễn Thành Trung  6 tuổi, đưa về thăm ông nội ở Cống Bà Xếp. Ngày mồng 3 Tết cáu đi lạc. Mồng 5 đi khấn Thánh Giuse cũng chưa thấy. Mồng mười đi khấn lại. Lúc trở về thì thấy cháu đang ngồi chơi gần ngõ vào phòng công an Phường 6 Tân Bình. Cha con gặp nhau, vui mừng trong nước mắt.

 

  • Kẻ què đi được

Anh Giuse Cao Hoàng Thế 30 tuổi, giáo xứ Bình hòa, có đứa con gái 4 tuổi, tên gọi Teresa Cao Thị Thùy Trang. Cháu bị sốt tê liệt lúc được hai tháng, không đi được, chỉ lết thôi, mặc dầu đã chạy chữa thuốc thang hết cả cơ nghiệp.
Đầu tháng 12 năm 1989, anh đưa con đến cầu khấn trước tòa Thánh Cả Giuse Chí hòa,  thì linh mục phụ trách bảo: “Cháu sẽ đi được trước lễ Noel”. Quả nhiên đúng một tuần trước lễ  Noel, vợ chồng anh đang ngồi nói chuyện thì bé Trân kêu lên: “Má ơi con đứng lên đi đây” Nói xong cháu liền  đứng lên đi được thật. Sau đó càng ngày cháu đi càng  vững hơn. Ngày 21-02-1990, anh Thế đưa con đến tạ ơn Thánh Cả.

 

 

  • Giếng Ông Thánh Giuse

Gia đình ông Hồ ở Chí hòa muốn khoan một giếng phía sau nhà nhưng sợ không trúng mạch nước tốt. Hai nhà hàng xóm mới khoan đều gặp phải nước phèn. Bà Hồ vững lòng trông cậy chạy đến kêu cầu Thánh Cả Giuse, rồi quyết chí thi hành. Quả nhiên gặp được mạch nước tốt. Liền đặt tên là giếng ông Thánh Giuse để nhớ ơn và nhờ ơn Người nữa.

 

  • Thấy của  đã mất

1- Chị Têrêxa Bùi Kim Vân  Bằng 36 tuổi, ở Phú Bình, mất tư trang nặng hơn năm chỉ, tìm mãi không ra. Sau khi đi khấn Thánh Giuse tại Chí hòa chừng một tháng, thì thấy gói tư trang ở gần chân tủ. Chắc là Thánh Giuse đã thúc giục kẻ trộm trả ra.

 

2- Bà cố Maria Diệm ở Ngã Ba ông Tạ, bị đứa cháu  ở Bắc vào chơi lấy trộm một số tư trang rồi về Bắc. Sự việc phỏng đoán vậy chứ cũng chưa có bằng cớ. Bà đi kêu cầu Thánh Giuse. Linh mục phụ trách nói “họ sẽ trả bà”. Mấy tháng sau, người cháu ấy đưa xe từ Bắc vào bán. Bà nhờ công an giữ xe và cật vấn. Hắn nhận lỗi, xin bán xe rồi hoàn trả. Thật là bất ngờ.

 

 

Chương chín:

THÁNH HOÁ THIỆN NHÂN

 

  • Ơn giúp đỡ tài chánh

1- Chú Giuse Nguyễn Hồng Quang, 27 tuổi và vợ là Maria Phạm Thị Lan,25tuổi, ở Phú Thọ Hòa. Mồng 8 tết năm 1990 chị đã sanh một cháu trai, tên là Giuse Nguyễn Duy Mẫn, đúng như lời vợ chồng chị đã khấn xin cùng Thánh Giuse.

Lại có hai  ơn kèm theo, một là anh Quang vốn nghiện rượu liền chừa, hai là bà nội cháu trúng số độc đắc kiến thiết, làm cho cha mẹ cháu căn nhà riêng.Ngày 10 7- 1990 vợ chồng anh Quang đã bế con đến tạ ơn.   

 

2- Chú Giuse Trịnh Trọng Thìn, 50 tuổi, ở Tân Phú. Sáng ngày 7- 5 -990, chú đến xin  Thánh Cả Giuse giúp đỡ cho có việc làm, và có tiền trả nợ. Đến chiều, chú trúng số kiến thiết hai triệu, đủ trả những món nợ cần gấp. 

 

  • Nhi đồng khỏi bệnh

1- Cháu Maria Nguyễn Bích Hằng sanh ngày 22-6- 1990 tại Phú Bình, Cha là Giuse Nguyễn Công Thành, mẹ là Maria Nguyễn Thị Huệ. Cháu bé từ khi sanh ra đã luôn bị táo Bón. Cứ ba bốn ngày phải bơm rút một lần. Các bác sĩ chưa tìm ra phương dược. Sau khi khấn thánh Giuse ít ngày thì cháu khỏi hẳn. Ngày 06- 9- 1990, gia đình bế con lên tạ. Người cha ghi sổ sự tích như sau:“Con xin tạ ơn Thánh Cả Giuse đã thương ban cho con gái con đi tiêu hóa bình thường”.   

 

2- Anh Giuse Phạm Văn Thiều 46 tuổi, và vợ là Maria  Đào Thị Hoàng, ở Bình an Thượng. Con trai là Giuse Phạm Ngọc Thạch, 3 tuổi, bị bệnh sa đì nặng. Bác sĩ đã hẹn ngàyđến mổ.  Trong khi ấy đi kêu cầu thánh Giuse tại Chí hòa, sau một tuần lễ uống thuốc Nam thì khỏi hẳn.  

 

  • Như  một phép mầu

Chị Kim Anh, y sĩ  ở Nam hòa có mẹ già 86 tuổi. Chị muốn mua nhà gần nhà thờ để mẹ đi lễ được dễ dàng, nhưng còn thiếu 5 cây vàng. Không biết làm sao có đủ được, chị chạy đến kêu cầu Thánh Cả Giuse. Đầu tháng 5-1990, như có một phép lạ xảy ra. Có một bà tự dưng kêu chị lại an ủi và cho 3 cây vàng, không đặt vấn đề hoàn trả. Rồi một người khác cũng cho thêm đủ để mua nhà. Đồng thời một người bạn ở nước ngoài cũng gửi tiền đủ mua một xe gắn máy. Sau hết, vì là y sĩ, chị được điều động về một nhiệm sở tốt hơn. Rồi chị kết luận: Tất cả xảy đến như là một phép mầu. Nguyện cho Danh Chúa được cả sáng.

 

84 Thánh Giuse yêu thích trẻ em  

1- Cháu Josephine Các, tên thật là Trần Hoàng Phượng Các, sanh  ngày 14- 11- 1987 tại giáo xứ An Iạc, cha là Phêrô Trần Hữu Thạnh, mẹ là Cecilia Phạm Thanh Thúy. Hiếm muộn, anh chị kêu cầu Thánh Cả Giuse mà sanh ra cháu. Cháu rất xinh, rất ngoan, rất khỏe. Tám tháng đã biết đi,  một  năm đã biết đọc kinh, học mẫu giáo rất giỏi.

Nhà xuất bản Văn-hóa đã lấy hình cháu làm ảnh lịch 1992. Lạ một điều, hễ ngày 14 trong tháng, mà không nhớ đưa cháu viếng Đền thánh Giuse thì cháu nóng mình.

 

2- Cháu Têrêxa Phương Thảo, con anh chị bác sĩ  Phúc  đã  được dâng cho thánh Giuse Mỗi khi làm tóc cho cháu, thì cũng phải cho cháu viếng Đền, hoặc ít ra phải cầu nguyện Thánh Giuse cho cháu, không thì cháu đau mình.  
Điều này, chính bà mẹ hai cháu đã nghiệm và làm chứng. Có lẽ đó là cách Thánh Giuse tỏ lòng thương mến các em.  

  

85 Mất của  được thấy  

1- Chú Phêrô Tánh, từ Báo đáp, Nam định vào  thăm bà con ở Chí hòa. Ban đêm, người làm công nhà chủ lấy mất hai triệu hai trăm ngàn đồng và một xe đạp, rồi trốn đi. Sáng hôm sau chú đi kêu khấn Thánh Cả Giuse, rồi tìm đến nhà người đã giới thiệu tên đầy tớ. Người ấy ngay tình đã giữ giúp tên kia một triệu tám, liền đem ra trả chủ của.

 

2- Bà Maria Hoàng Thị  Cao xứ Văn Côi Tân bình kể tích sau đây: Con bà đánh mất giấy xuất cảnh đã 21 ngày, tìm mãi không thấy.  Ngày 23-5-1991 bà đi kêu khấn Thánh Giuse thì hai ngày sau, con bà đi bỏ thư tại bưu cục Tân bình thì như tình cờ, chị giữ xe tại  đó nghe biết chuyện liền đem trả lại giấy xuất cảnh chị đã lượm được.  Đưa tiền tạ, chị không nhận, dù chị cũng nghèo.  

 

  • Chừa xì  ke á phiện

1- Chú Giuse Phạm Văn Tâm 46 tuổi, giáo xứ Sao Mai, nghiện xì ke cách nặng đã 21 năm không sao chừa được. Đầu năm 1991 vợ chồng đến khấn Thánh Cả Giuse Bảy Hiền. Linh mục phụ trách khuyên anh  hãy trông cậy ơn Chúa giúp, và nói thêm, nếu không chừa có thể bị sửa phạt. Ba tháng sau, anh bị đụng xe hư mất hai ngón chân. Khi nằm ở bệnh viện, anh suy nghĩ và quyết chí từ bỏ ma túy. Cơn nghiền cứ bớt dần, đến nay đã chừa được hai tháng.

 

2-  Chú Giuse Cuông Đình Duyên, 46 tuổi, ở Nam Hòa mắc nghiện á phiện bốn năm. Nhờ mẹ và vợ cầu khấn Thánh Giuse, thì anh đã bỏ hút được nửa năm.

 

  • Như  chàng trai phung phá

 Đây không phải một chàng  trai phung phá, nhưng là một cô nàng phung phá. Một gia đình ở Tân Phú, có người con gái bỏ nhà ra đi chung sống với một tên ma cô lão luyện, gấp đôi  tuổi cô ta. Tuy chỉ cách nhà cha mẹ mấy căn, mà không  chịu ghé thăm bao giờ. Cha mẹ không thất vọng, vì đã từng được nhiều ơn Thánh Giuse.

Sáng ngày 21-6-1991, ông bố đem ảnh con lên trước Tòa ông Thánh mà khóc. Thì chín giờ đêm cùng ngày cô con khiêm nhượng trở về ,và xin lỗi  cha mẹ. Tuy còn nhiều khó khăn,  nhưng bước đầu đã tốt. ông Thánh sẽ giải quyết êm xuôi.Ngày 21-6-1991 ông bố đã đến tạ ơn.

 

88 Thánh Giuse không biên giới  

Thánh Cả Giuse hoạt động không biên giới. Kiều bào từ các nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc liên lạc về kêu khấn “ông Thánh  Giuse Việt Nam” cũng được ơn: như khỏi bệnh,  cải thiện, việc làm, nhất là sinh con  khi  hiếm muộn. Sau đây là tên mấy cháu, làm  tượng trưng: 

1- Cháu Giuse  Maria  Nguyễn Đăng Khoa sinh tháng 3-1990, cha Giuse Nguyễn Văn Tâm, mẹ Anna Hồ Thị Nghĩa, San Jose, Cali, USA.              

2- Cháu Giuse Quốc việt, sinh tháng 10-1990, cha Giuse Chiến, mẹ Maria Diên, Melbourne, Úc.

3- Cháu Maria Nguyễn Thị  Tiên, sinh 15-11- 1990, Cha Đôminicô Nguyễn Văn Khải, mẹ Bùi Thị Tuyết, Canada.

4- Cháu Josephine Nguyễn Trần Kim Thuận, sinh 1990, cha là Joakim Nguyễn Văn Thừa, mẹ là Maria Trần Tuyết Loan, Ca, USA.

 

89 Đấng Bảo trợ Hội thánh  

1- Cha Giuse Đinh Cao Tùng, chánh xứ Văn Côi, Tân Bình cùng với giáo dân đã xây trong nhà thờ xứ thánh hiệu Giuse, trong những điều kiện thật khó khăn. Địa điểm cùng kiệt, tài chính eo hẹp. Vậy mà ngôi giáo đường đã hoàn tất, thật đẹp về kỹ thuật, thật hợp về phụng vụ.  Trong lễ khánh thành, Cha sở tuyên bố : “Nhà thờ này nhờ Thánh Giuse mà có”

 

2- Linh mục Nguyễn Văn Chủ, cha sở Xóm thuốc Gò Vấp, mới về nhận xứ được mấy Tháng đã trùng tu thành đường  đẹp đẽ, khang trang. Ngày lễ Tạ ơn có ba Đức Cha và 50 linh mục đồng tế. Giáo hữu hết sức vui mừng.

Công trình khá tốn kém, nhưng cha sở đã có một chỗ dựa chắc chắn là Thánh Giuse, mà ngài hết lòng trông cậy và hằng cổ võ cho con chiên sùng kính Thánh nhân nữa.  
Sự giúp đỡ tinh thần, vật chất của Thánh Cả thật lớn lao. 
Toàn thể giáo xứ tri ân Thánh Cả.

 

 

  • Mấy chứng nan y

1- Anh Phanxicô Trần Văn Thứ 37 tuổi, giáo xứ Nghĩa Hòa, từ tháng 3 năm 1990 mắc chứng mộng du, đêm đêm đi lang thang, tâm thần bất định. Tháng Tư anh đi bệnh viện Chợ quán, đồng thời anh kêu cầu Thánh Giuse. Nay anh đã bình phục và đến tạ ơn Người.

 

2- Ông Phaolô Trần Hữu Phước 406/31A, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 5, quận 3, TP Hồ Chi Minh. Trong  thư đề  ngày 10-11-1991, ông xác nhận “ông mắc chứng xơ gan cổ chướng mãn tính. Ngày 21-l0-1991 bệnh tái phát dữ dội, được đưa vào bệnh viện Bình-dân,  ba ngày hôn mê liên tục. Bà vợ là Nguyễn Thị Nguyệt đi khấn cầu Thánh Giuse tại Bảy Hiền. Sau mười ngày ông được bình phục và xuất viện ngày 21-111991. Cuối thư ông có lời cầu như sau: “Con cầu xin cho mọi người trên thế gian năng cầu xin với Thánh Giuse để được hồng ân của Ngài”

 

Chương mười:

HIỂN DƯƠNG THIÊN CHÚA

 

91  Chuyện mất của  

 1- Bà Minh Hòa ở Bảy Hiền mới vay được hai cây vàng, đổi thành tiền, có ý để sửa nhà, chẳng may bị kẻ gian lấy mất. Bà đi khấn cầu Thánh Giuse thì hai giờ sau tìm ra kẻ trộm. Đó là đứa cháu trong nhà, trước nó còn chối, nhưng sau chịu nhìn nhận và trả lại số tiền đã đánh cắp.

2- Bà Maria Nguyễn Thị Ngoan, 71 tuổi ở Nam Hòa mất một số tiền. Trong nhà hồ nghi lẫn nhau, ông đổ cho bà lấy, bà đi kêu khấn Thánh Giuse thì mấy ngày sau, thấy số tiền để trên nóc tủ, mà trước kia không thấy.

 

  • Tích sinh nở khó khăn

1- Thai ngược: Một chị ở Hòa hưng có thai đến gần ngày sinh. Bác sĩ và máy siêu âm cho biết là thai ngược, sinh nở chắc khó, có lẽ phải mổ. Người chồng đến kêu cầu Thánh Cả, thì chị đã sinh con cách bình thường, được một cháu trai nặng 3 kí 3, đặt tên là Koska Mai Khôi.

 

2- Thai chết:  Chị Maria Nguyễn Thị Phôi Pha, 30 tuổi, ở Tân Phú, đã có thai và thai chết một tuần. Sau khi đi khấn Thánh Cả Giuse , chị sinh được bình an không phải mổ xẻ. Bà đỡ đã nói: “Em có thần linh phù hộ mới được may mắn như vậy”.

 

  • Xe vải KT

Chú Đaminh Bùi Mẫn Cán 47 tuổi ở Phú Bình. Ngày l3- 3- 1992, chú mua một xe vải KT 40 tấn trị giá 20 triệu đồng. Chú giao cho một chủ xe quen biết tên Tỷ, chở từ lúc giữa trưa mà đến tối chưa thấy về tới nhà. Đêm ấy chú  lo lắng không  ngủ  được. Sáng sớm hôm sau, chú đến viếng Thánh Giuse tại Bảy hiền, rồi đổ đi tìm. Đến nhà chủ  xe thì hắn chưa về, đến hiệu vải thì chủ nhân không hay biết gì cả. Đến phường 3 Gò vấp, tình cờ có người nói thấy một xe vải mới đi qua, đi thêm một quãng nữa thì vào trúng nhà chứa vải gian. Được tin cấp báo, Công an Gò Vấp đến nơi, bắt được tên Tỷ, kiểm soát đủ số vải, rồi trao lại cho chủ củ.

  • Trẻ  em đi lạc

1- Anh Phaolô Đinh Công Khoái và vợ là Maria Thu vừa ở Bắc vào Tp. Hồ Chí Minh, ngụ số 499 Hoàng Văn phụ. Con là Giuse Đinh Văn Dương, 5 tuổi đi lạc từ chiều ngày 1 5- 7- 1991. Mẹ đến cầu khấn Thánh Giuse, thì sáng hôm sau tình cờ có người cho biết Phòng phát thanh quận 8 báo: có giữ một trẻ lạc. Vợ chồng anh Khoái vội lên quận  8 thì thấy con ở nhà bà bí thư quận. Biết vui mừng dường nào.

 

2- Chú Vinh Sơn Nguyễn Quang Thiện ở Phú Bình,con là Phaolô  Nguyễn Quang Trình,4 tuổi đi lạc trưa ngày 30- 11 – 1991. Sáng hôm sau đi kêu khấn Thánh Giuse, ngày 2- 12- 1991, hai chàng thanh niên trong xóm, đang đi trên đường Lạc Long quân thì nghe tiếng cháu Bình gọi. Lúc đó cháu đang bị một người đứng tuổi đi xe đạp chở ra xa cảng miền Tây. Hai chàng giữ người ấy và cháu lại, đưa vào đồn công an phường 1, quận 11, và cha của cháu đã đến nhận cháu về.

 

  • Công việc làm ăn

Công việc làm ăn là vấn đề  quan trọng. Là Đấng Bảo trợ gia đình, Thánh Giuse  chẳng nề can  thiệp, dầu trong những điều dường như  nhỏ mọn. 

1- Gia đình kia có con heo nái đã đến kỳ, trăn  trở mười tiếng đồn hồ mà không  đẻ được. Bà chủ đi  kêu khấn Thánh Giuse, về đến nhà thì nó bắt đầu đẻ được 12 con rất khỏe mạnh, chịu ăn, chóng lớn như thổi. Thường giống heo nái chậm đẻ một giờ thì đã ngộp, đàng này khác hẳn.

 

2- Một người buôn nón  ở chợ Tân bình ế quá. Chú đi khấn Thánh Giuse về thì bán được. Trước kia khách đã thưa, lại không chịu trả giá, thường đến hỏi rồi đi. Nhưng hôm sau, mọi sự đã khác ra, khách đến đông hơn, hàng bán chạy hơn. Cảm tạ Thánh Cả.

 

  • Con phung phá  trở về

Bà Maria Hoàng Thị Hồng 54 tuổi ở Tân phú, có người con trai nghiền xì ke đã lâu. Ngày 09- 7- 1991, anh đem xe honda cầm cho người ta, lấy 1 triệu đồng, nhưng không quên nhắn cho mẹ chuộc lại. Rồi chuồn thẳng. Bà mẹ một mặt chuộc lại xe, một mặt đi cầu xin Thánh Cả Giuse tại Bảy Hiền. Ngày 13-7-1991, chàng phung phá trở về, đem theo 1 chỉ 5 vàng, một xe đạp, một số quần áo mới và xin lỗi mẹ. Số là, anh ta định lên Lâm đồng mua vườn chè làm ăn và tránh xa dịp tội. Nhưng thấy sốt ruột quá nên đã trở về.

 

  • Không phân biệt lương giáo

1- Một chàng thanh niên lương dân ở khu Bùi phát đang thất nghiệp. Anh đến kêu cầu Thánh Cả thì sau đó, đọc báo thấy cơ sở kia cần người lái xe, anh đến xin, liền được nhận vào làm ngay, lương bổng cũng khá hậu. Hiện anh trọ một nhà Công giáo và sáng Chúa nhật anh đi lễ như giáo hữu vậy. 

 

2-  Một cô gái 26 tuổi, người lương, bán quán cafê khu chợ  Tân bình Ngày kia có ông kiều bào đến giải khát, thấy cô nghèo thì tặng hai trăm ngàn đồng. Cô bé ngây thơ nhận liền, tưởng họ giàu thì giúp mình. Ai dè vài hôm sau, ông đến đòi cưới cô, mặc dầu vợ ông ta còn sờ sờ ra đó.Ông đe nạt dữ, cô ta sợ cuống lên. Nhờ bạn hữu mách, có đến kêu khấn Thánh Giuse, thì tối đó ông đến vui vẻ, xin lỗi cô và không đòi hỏi gì nữa.

 

 

 

  • Mấy tích bệnh tâm thần

1- Anh Gioan Tẩy Giả Dương Sĩ Thông 20 tuổi quận 10 Tp HCM,  mắc chứng động kinh đã năm năm, khi lên cơn thì giật giọng, có người vỗ vỗ thì tỉnh lại. Gia đình đi khấn Thánh  Giuse thì  được khỏi dứt, nhằm ngày lễ Đức và Xuống Tuyết 05-8-1989.

 

2- Có một ông đứng tuổi, mắc bệnh tâm thần bỏ nhà ra đi. Gia đình đi khấn Thánh Giuse thì buổi chiều, gặp ông đang đi trên đường Hàng Xanh, liền đưa về. Vài ngày sau ông đã qua đời êm thấm. 

 

  • Như  tiệc cưới Cana

Anh Lưu viết  Hà và chị Agnes Dương Sĩ Thị Hảo, ở quận 10 Tp HCM. Cả hai đều là người gốc huế, thuộc gia đinh trọng lễ giáo. Anh Hà là lương dân trọng đạo Phật, đạo Khổng, Chị Hảo là Công giáo, phép nhà rất nghiêm. Chị Hảo hơi  cao tuổi, gặp anh Hà tưởng có thể xe duyên. Phiền gia đình anh Hà không thuận cho anh tòng giáo. Cha mẹ đàng gái cũng la rầy con, sợ duyên kiếp không bền. 
Anh chị đi kêu khấn Thánh Cả Giuse. “Các dẫy núi đã đời đi”. Anh Hà học đạo tại Dòng Chúa Cứu Thế và chịu đạo sốt sắng, tên Thánh là Giuse Maria. Hai họ đều thỏa thuận đề huề, và hôn lễ đã cử hành long trọng dịp lễ Giáng sinh 1991.

 

  • Như thấy Thánh Giuse hiện đến

Mặc dầu có vẻ mơ hồ mây tích sau đây được viết ra, theo lời các đương sự mà chúng tôi cho là thành thực.

1- Chị Maria là giáo hữu tân tòng ở Thị Nghè, chị chưa biết rõ về Thánh Giuse. Một hôm đang quì cầu nguyện trong nhà thờ, thì ông Thánh rời tòa đến đứng trước mặt chị. Từ đó chị đem lòng kính mến Ngài và luôn được Ngài bảo trợ. 

2-  Chú Phêrô Mai Tri Phương ở Bình thái, dại dột cho rằng Thánh Cả Giuse già cả, chắc không còn hoạt động, giúp người ta được bao nhiêu, vì thế  chú lơ là việc tôn kính Người.Phải khi chú gặp điều oan ức, toan tự tử, thì thấy một cụ già mặc áo nâu lạt, không rõ mặt, đến an ủi bảo là không hề gì đâu. Nên chú bỏ ý định trầm mình xuống sông. Sau đó nghe nói có tòa Thánh Cả Giuse linh thiêng tại Chí hòa, chú dự định đến viếng. Trước khi đi, chú viếng nhà thờ Bình thái, thì thấy như thánh Giuse bỏ tòa mà đến với mình. Sau khi đi khấn về, các việc đều êm xuôi, không có tai hại nữa.

 

 

Lai lịch Đền Công chính  

Địa chỉ: 69 đường Cách mạng tháng Tám  

Tân Bình, T.phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

 

Nếu các tích trên kia viết bằng mực bằng giấy, thì tích sau đây được ghi bằng bia đá bảng vàng Đền Công Chính với cổng Tam Quan, các tượng đài, các nhà bia, sẽ cùng thời gian trường tồn, mà ca tụng quyền năng Thiên Chúa.    

   
Khách thập phương thường đến đây hành hương, cầu nguyện và cảm tạ về các ơn đã lĩnh nhận, do lời cầu của THÁNH CẢ GIUSE 

Lm.   Châu Vị Thuỷ

 

 

 

 

16.                NGẮM:BẢY SỰ ĐAU ĐỚN VÀ VUI MỪNG

CỦA ÔNG THÁNH GIUSE

Gp. Hà Nội

 

  • Thánh Giuse thấy Đức Bà có thai

Thứ 1. Ngắm khi ông Thánh Giuse thấy Đức Bà có thai, mà chẳng hiểu sự ấy làm sao, thì lấy làm đau đớn khốn cực lắm. Nhưng mà khi thánh Thiên thần hiện đến bảo cho Người biết Đức Bà có thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Con Đức Bà sinh ra là Chúa Cứu thế ra đời chuộc tội thiên hạ, thì Ông Thánh Giuse lấy làm yên ủi vui mừng biết là dường nào.

 

Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng Danh, xin Ông Thánh Giuse  vì đau đớn cùng sự vui mừng ấy, yên ủi chúng con trong mọi sự khốn khó đời này. Amen.

 

  • Thánh Giuse đem Chúa Giêsu vào hang đá

Thứ 2. Ngắm khi Đức Bà ở thành Belem đã đến ngày sinh mà ông thánh Giuse chẳng tìm được nhà trọ, phải đem Đức Bà vào hang đá, ở làm một với bò lừa, thì lấy làm buồn bã khốn cực lắm; nhưng mà khi Người nghe tiếng các thánh thiên thần bởi trời mà xuống hát mừng Chúa Cứu thế ra đời, thì vui mừng biết là dường nào.

 

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng danh, xin ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà cầu bầu cho chúng con được chê bỏ của cải, cùng sự sang trọng thế gian và mến sự khó khăn cùng sự khiêm nhường. Amen.

 

  • Thánh Giuse thấy Chúa Giêsu chịu cắt bì

Thứ 3. Ngắm khi đức Chúa Giêsu chịu phép cắt bì, mà ông thánh Giuse thấy máu đức Chúa Giêsu chảy ra, thì thảm thiết thương xót đức Chúa Giêsu lắm lắm, nhưng mà khi Người đặt tên Giêsu cho con trẻ, cùng suy tên ấy êm ái dịu dàng cực cao cực trọng, phép tắc vô cùng, thì lấy làm vui mừng là dường nào.

 

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng danh, xin ông thánh Giuse, vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà cho chúng con được lòng sốt sắng cung kính mà kêu tên cực trọng đức Chúa Giêsu  khi sống và lúc sinh thì. Amen.

 

  • Thánh Giuse nghe ông Simeon nói tiên tri

Thứ 4. Ngắm khi ông thánh Giuse đem Đức Chúa Giêsu vào đền thờ, mà thấy ông thánh Simêong nói tiên tri những sự thương khó Đức Chúa Giêsu sẽ phải ngày sau, thì lấy làm đau đớn như phải dao sắc thâu qua lòng vậy; nhưng mà khi thấy ông thánh Simêong lại nói rằng: Có nhiều kẻ sẽ được rỗi linh hồn bởi công nghiệp Đức Chúa Giêsu mà ra thì Người lấy làm vui mừng kể chẳng xiết.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng danh, xin ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà cầu bầu cho chúng con được rỗi linh hồn vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu . Amen.

 

  • Thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai cập

Thứ 5. Ngắm khi ông thánh Giuse thấy Đức Chúa Giêsu là Chúa trời đất muôn vật, phải trốn đi khách đày trong nước Aicập, cùng chịu khó khăn thiếu thốn và khó nhọc vất vả liên, thì đau đớn  thương xót Đức Chúa Giêsu lắm; nhưng mà Người hằng vốn vui vẻ tươi tỉnh, vì hằng ở làm một cùng Đức Chúa Giêsu liên chẳng lìa ra khỏi Đức Chúa Giêsu bao giờ.

 

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng danh, xin Ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, cho chúng con được làm mọi việc chúng con vì Đức Chúa Giêsu và được giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu liên. Amen.

 

  • Thánh Giuse đem Chúa Giêsu về Nagiaret

Thứ 6. Ngắm khi ông thánh Giuse đem Đức Chúa Giêsu ở nước Aicập về thành Nazaret mà nghe tin con vua Erode nối quyền cha mình mà trị nước Dothái, thì lấy làm đau đớn sợ hãi lắm; nhưng mà khi thấy thánh thiên thần bảo mình đừng sợ hãi, một cứ đem Đức Chúa Giêsu cùng Đức Bà về, thì Người lấy làm vui mừng lắm, cùng vâng lời thánh thiên thần ngay.

 

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng danh, xin Ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà bầu cử cho chúng con khỏi giặc giã, ôn dịch, thần khí, được bằng yên cùng yên lòng yên trí mà giữ đạo thánh Đức Chúa Trời liên. Amen.

 

  • Thánh Giuse xa Chúa Giêsu ba ngày

Thứ 7. Ngắm  khi ông thánh Giuse lạc mất Đức Chúa Giêsu ba ngày, thì lo buồn đau đớn biết là dường nào; nhưng mà khỏi ba ngày, khi lại tìm thấy Đức Chúa Giêsu trong đền thờ, thì biết người vui mừng là chừng nào.

 

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, một kinh Sáng danh, xin Ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà bầu cử cho chúng con đừng có phạm tội trọng lạc mất Đức Chúa Giêsu bao giờ. Amen.

 

Gp. Hà Nội

 

 

VIỆC TÔN SÙNG THÁNH CẢ GIUSE TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI

 

Ngày 19 tháng 3 hằng năm, Giáo hội cử hành lễ trọng kính Thánh cả  Giuse. Tại nhiều nước, ngày lễ này được mừng cách long trọng và được coi là ngày lễ buộc, nghĩa là các tín hữu công giáo dự thánh lễ  và nghỉ các công việc làm nặng nhọc hằng ngày.

 

Theo truyền thống Cựu  Ước,Thánh Cả Giuse là con ngưòi công chính và  trung thành. Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Vị  canh giữ Nhà của Người. Thánh Cả Giuse liên hệ Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế, với Dòng dõi Vua Ðavit (Mt 1, 1-16 ; Lc 3, 23-38). Thánh Cả Giuse là Bạn cực sạch Ðức Trinh Nữ Maria, Thành Nagiaret và là Cha nuôi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thánh Cả Giuse là người hướng dẫn Thánh Gia trong lúc trốn sang Ai cập và trong lúc trở về cư ngụ tại Nagiaret (Mt 2, 13 -21).

 

Thánh Cả Giuse thời danh như vậy; nhưng việc sùng kính Ngài chỉ được phổ biến trong toàn Giáo hội từ thế kỷ  19 đến nay, cách riêng thời Ðức Pio IX (1846-1878), Vị  Giáo Hoàng đã lập lễ kính Thánh Cả Giuse, Bạn cực sạch Ðức Maria và tôn phong ngài làm Quan Thầy Giáo hội, được cử hành vào ngày 19 tháng 3 hằng năm – và Ðức Gioan XXIII (1958-1963), đã ghi tên Thánh Cả Giuse vào trong Kinh Nguyện Thánh Thể một, cũng gọi là “Qui lễ Roma”.

 

Ðức Pio IX (được phong Chân phước ngày 3.9.2000, Năm Thánh). Với Sắc lệnh “Inclytus Patriarcha Joseph” ngày 7.7.1871, ngài dành cho Thánh Cả Giuse một sự tôn sùng cao hơn sự tôn sùng dành cho Các Thánh khác. Ngài quả quyết: Thiên Chúa đã ban những ơn đặc biệt cho Vị Thánh Hộ thủ Chúa Cứu Thế trong chương trình cứu chuộc. Trong Sắc lệnh này, ngài nhắc đến lòng sùng kính cách riêng của ngài từ thời thơ ấu đối với Thánh Cả. Vì thế ngày 10.9.1847, một năm sau được bầu làm Giáo Hoàng, với Sắc lệnh “Inclytus Patriarca Joseph”, ngài đã cất nhắc lễ Thánh Cả Giuse lên bậc hai trong toàn Giáo hội, một lễ theo ơn rộng Tòa Thánh đã được cử hành tại nhiều nơi.

 

Việc gợi lại Sắc lệnh “Inclytus Patriarca Joseph” mang ý nghĩa sâu xa. Ðây là chứng tá hùng hồn nói lên sùng sùng kính của Vị Giáo Hoàng này trong các năm về sau. Với Sắc lệnh “Quemadmodum Deus”, công bố ngày 8.12.1870, Ðức Pio IX nhắm đến việc tuyên bố Thánh Cả Giuse là Quan Thầy toàn Giáo hội, vì ngài nhìn thấy những đe dọa đang đè nặng trên Dân Chúa và trên Tòa Thánh, năm Bè Nhiệm nổi dậy tại Ý và chiếm Nước Tòa Thánh chính năm 1870.

 

Việc tôn sùng của  Ðức Piô IX đối với Thánh Cả Giuse, một  đàng, được nuôi dưỡng bởi những biến cố của Giáo hội và đàng khác, nhằm đến việc nêu gương sáng thúc đẩy việc phổ biến lòng sùng kính này trong toàn Giáo hội. Trong các Văn kiện của Hội nghị giáo phận Bordeaux (Pháp) năm 1868, có ghi lại như sau: “Ðược hấp dẫn bởi gương sáng của Vị Chủ chăn tối cao, các tín hữu đã thi đua nhau trong việc sùng kính Thánh Tổ Phụ bằng những tâm tình bên trong và bằng cả những dấu hiệu bên ngoài nữa, như xây cất các đền thờ, lập các Dòng Tu, các Hội đoàn… kính nhớ Thánh Cả và đặt các giáo xứ, các gia đình dưới sự che chở của Ngài. Trong 32 năm Triều Giáo Hoàng của Ðức Pio IX đã có tới 65 Dòng Tu được thành lập mang tên Thánh Cả Giuse hoặc theo Linh đạo của Ngài.

 

Cũng như Ðức Pio IX vị Tiền nhiệm của ngài, Ðức Gioan XXIII (cũng được tôn phong lên bậc Chân phước ngày 3.9.2000, Năm Thánh, cùng với Ðức Pio IX) có lòng sùng kính Thánh Cả  Gisue cách riêng. Trong Hội nghị mật các Hồng Y ngày 19.3.1962, Ðức Gioan 23 đã tuyên bố như sau: “Thánh Cả Giuse là Vị Thánh rất yêu quí đối với Ta, vì hai lý do này: Vào ngày lãnh Bí tích Rửa tội, Ta đã nhận Ngài làm Thánh Quan Thầy và trong ngày lễ của Ngài, năm 1925, Ta được tấn phong Giám mục tại Roma, kinh thành đời đời”. Nhắc lại Kinh kính Thánh Cả Giuse do Ðức Leo XIII (1878-1903) đã soạn: “Kính lạy Thánh Cả Giuse …”, ngày 29.9.1961, Ðức Gioan 23 cho biết như sau: “Kinh này rất quí báu đối với Ta, vì Ta đã học từ lúc còn nhỏ”. Lòng sùng kính này gia tăng với thời gian, cách riêng từ lúc lên lên làm Giáo Hoàng.

 

Trong Tông thư “Le Voci” (các tiếng nói) công bố 19.3.1961 (Lễ  Thánh Cả Giuse), sau khi lược tóm các văn kiện của các Vị Tiền nhiệm về hình ảnh và lòng sùng kính đối với Thánh Tổ phụ, Bạn cực sạch Ðức Maria, Ðức Gioan XXIII đặt Thánh Cả Giuse làm Quan Thầy Công đồng chung Vatican II. Nên nhớ lại: Việc triệu tập Công đồng chung Vatican II đuợc Ðức Gioan loan báo 25.01.1959, tại Ðền Thờ Thánh Phaolô ngoài Thành và được khai mạc 11.10.1962, sau ba năm chuẩn bị . ÐTC viết : “Không Vị Thánh nào trên trời Ta có thể phú thác Công Ðồng cho, cách tốt hơn là Vị đứng đầu Thánh Gia Ðình Nagiaret và là Quan Thầy toàn Giáo hội, là Thánh Cả Giuse”.

 

Ðón nhận ước mong và lời thỉnh cầu từ năm 1815, được thấy tên của Thánh Cả trong Kinh Nguyện Thánh Thể, nên ngày 13.11.1962, Ðức Gioan 23 đã viết như sau: “Qua trung gian của Hồng Y Quốc Vụ Khanh, Ta bày tỏ công khai với các Nghị phụ của Công đồng, tụ họp nhau trong Ðền thờ Thánh Phêrô, và Ta truyền ghi tên của Thánh Cả vào Kinh nguyện Thánh Thể (Canon Romanum) kể từ ngày 8.12.1962, ngày lễ Ðức Maria vô nhiễm”.

 

Ðể như dấu hiệu cụ thể của lòng sùng kính, ngày 19.3.1961, Ðức Gioan truyền tu bổ lại nhà nguyện và bàn thờ Thánh Cả Giuse, bên phía tay mặt trong Ðền thờ Thánh Phêrô, nơi cử hành Công đồng. Nơi thánh này phải trở nên như nơi gợi lên lòng đạo đức của mỗi tín hữu và của các đoàn hành hương. Hai năm sau, cũng ngày 19.3.1963, ÐTC muốn làm phép ảnh Thánh Cả Giuse được trưng bày trong nhà nguyện này, nhân dịp mừng 38 năm tấn phong Giám mục. Ngài viết: “Ta muốn thực hiện công việc này đối với người Bạn cực sạch Ðức Maria, Người Bảo Vệ Chúa Giêsu và như để trọn lời khấn hứa của Ta về việc đốt lên ngọn lửa sùng kính, cả trong Ðền thờ lớn nhất của Giáo hội, đối với Thánh Cả Giuse, “Protector Sanctae Ecclesiae”, Ðấng Bảo Vệ Hội Thánh và là Ðấng Bảo Vệ Công đồng chung Vatican II”.

 

Như vậy không những Ðức Gioan XXIII có lòng sùng kính riêng đối với Thánh Cả Giuse, nhưng ngài còn muốn thông truyền cho người khác lòng sùng kính này. Ngày 29.7.1961, ngài khuyên các Giám đốc chủng viện nhắn nhủ các chủng sinh hãy có lòng sùng kính cách riêng đối với Thánh Giuse. Và ngày 17.3.1963, trước lễ Thánh Cả, ngài khuyên các linh mục và anh chị em giáo dân của mọi thời đại hãy theo gương ngài trong việc sùng kính Thánh Cả Giuse. Suốt đời ngài, Thánh Cả Giuse luôn luôn là điểm tham khảo thiêng liêng chắc chắn. Cũng ngày 17.3.1963, ngài nói: “Với người Bạn trung thành lo lắng này, Ðấng đã gìn giữ Chúa Giêsu trong lúc Người sống ở trần gian và luôn luôn che chở từ trời Nhiệm Thể của Người, cùng với lời cầu nguyện đầy tin tưởng, Ta phú thác các lo lắng hiện tại và tương lai của việc quản trị Giáo hội”.

 

Giáo hội và giáo dân Việt nam từ trước tới giờ vẫn sùng kính cách riêng Thánh Cả Giuse, vì chính ngày lễ của Ngài 19.3.1533, dân tộc Việt nam được nghe giảng Tin Mừng. Hằng năm các giáo xứ, các họ đạo, các gia đình vẫn dành cả tháng ba để kính riêng Thánh Cả. Rất nhiều người, nhiều giáo xứ, nhiều họ đạo đã nhận Thánh Cả Giuse làm Quan Thầy.

Nguồn: 
https://gpcantho.com