Mắt tốt thì toàn thân sẽ sáng. Mắt ở đây là lương tâm của mỗi người. Lương tâm là tiếng Chúa trong đáy lòng con người.
Từ chính kinh nghiệm của mình, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta kinh Lạy Cha để cầu nguyện. Vì thế, chắc chắn đây là lời kinh quan trọng nhất, ý nghĩa nhất và đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể thân thưa với Chúa là Cha chúng ta ở trên trời.
Bài Tin Mừng trích đọc hôm nay xếp ba việc đạo đức truyền thống (làm phúc, cầu nguyện và ăn chay) cạnh nhau và đưa ra một mẫu số chung: không phô trương, hãy hướng về Thiên Chúa để có thể nhìn thấy Ngài; hãy hành động vì Chúa mà thôi, không cần cho ai hay biết, và ngay cả với chính mình thì tay trái không biết việc tay phải làm.
Kinh nghiệm của dân Israen về Thiên Chúa trong suốt chiều dài của lịch sử là “Vì lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời” (Tv 136).
Cho đến hôm nay, thế giới không một ngày ngừng tiếng súng. Con người vẫn luẩn quẩn trong toan tính của phe nhóm mình, luẩn quẩn trong bạo lực và không bao giờ có lối thoát; trái lại bạo lực chất chồng trên bạo lực, trả thù nối tiếp trả thù.
Chúa Giêsu là Đấng Mêsia muôn dân trông đợi. Người là Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian để thực hiện công trình cứu độ.
Trải dài suốt lịch sử cứu độ với những thăng trầm của nó, Thiên Chúa luôn thể hiện Ngài là Đấng tín trung và không bao giờ thay đổi.
Chúa Giêsu đưa ra nguyên tắc nền tảng cho mọi suy tư hành động của chúng ta, đó là cái nhìn hướng về Thiên Chúa.
Toàn bộ Cựu Ước là một sự chuẩn bị công phu và vĩ đại, được thực hiện bởi một Thiên Chúa là tình thương và đầy quyền năng.
Muối có vị mặn và một trong những chức năng hay tác dụng của nó là ướp cho thực phẩm không bị hư. Muối phải giữ được vị mặn luôn luôn, nếu không nó sẽ bị coi là đồ bỏ đi.
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay, độc giả của thánh sử Matthêu (những người Do thái trở lại) không khỏi liên tưởng Chúa Giêsu với ông Môsê và họ hiểu rằng Chúa Giêsu chính là Môsê mới đến công bố Lề Luật mới là Tin Mừng cứu độ.
Chúa Giêsu mười hai tuổi đang ngồi giữa các bậc thầy trong đền thờ Giêrusalem, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi và ai nấy đều kinh ngạc.
Điểm nổi bật của dụ ngôn này là khuôn mặt của người mục tử: khuôn mặt ấy thể hiện sự cương quyết khi bỏ lại chín mươi chín con chiên kia ngoài đồng hoang để đi tìm cho kỳ được con chiên lạc; khuôn mặt ấy đồng thời thể hiện niềm vui khi tìm được con chiên của mình, con chiên bị mất đó.