Vào thời Tin Mừng Mátthêu được viết, các người Do-thái thuộc Hội Đường thường chỉ trích các người Do-thái đã tin vào Đức Giêsu Kitô, coi họ như những người đã bỏ Luật Môsê, bỏ cái cốt lõi của Do-thái giáo. Đức Giêsu của Mátthêu đã bác bỏ lối hiểu sai này. “Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c. 17).
Kiện toàn là đưa Luật Môsê đến chỗ thành tựu, hoàn hảo, bởi lẽ nó có những hạn chế, bất toàn, do Thiên Chúa phải nương theo trình độ lúc đó của Dân Ngài.
Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa. Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù. Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được. Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ, nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại. Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.
Khi ấy, Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình. Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Sarepta miền Siđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi.” Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này
khi ấy, Đức Giê-su nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng : “Các ông hãy nghe dụ ngôn sau đây : Có chủ nhà kia trồng được một vườn nho ; chung quanh vườn, ông rào giậu ; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa.
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Trong mùa Chay, Phụng vụ nhắc chúng ta: Chúa Giêsu là suối nguồn ơn phúc. Bài Tin Mừng cũng chứng minh cho thấy niềm khát vọng vô biên của con người. Một xã hội phát triển và giàu có về vật chất, chưa hẳn đã là hạnh phúc. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những nhu cầu tinh thần. Người phụ nữ Samari đã năm đời chồng, nhưng vẫn không thấy hạnh phúc.
Lúc sắp lên Giêrusalem, Đức Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư.
Lạy Chúa Giêsu ,khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Lòng nhân có chỗ đứng quan trọng trong Khổng giáo. Sách Luận Ngữ coi lòng nhân là nét đặc trưng của con người. Phật giáo cũng đề cao tinh thần từ bi hỷ xả Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu tan.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43). Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù, nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh. “Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?... Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22). Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),