Trong phụng vụ, các Thánh lễ luôn được kết thúc bằng lời chào “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an!” của vị chủ tế hoặc của một phó tế hay vị linh mục đồng tế. Tại sao Thánh lễ lại kết thúc bằng lời chúc này? Lời chúc này mang nội dung gì? Rất có thể nhiều trường hợp từng được nghe giải thích về ý nghĩa của lời chúc này nhưng không ý thức để lời chúc này tác động, nên đây là một dịp nhắc lại.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình, bổn phận truyền giáo cho thế giới. “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân. Ðể truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu, có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng, sống cái chết của Ngài mỗi ngày.
Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập WHĐ xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Phêrô đã có kinh nghiệm về sự công khai chối bỏ Thầy (Lc 22, 57). Ông bảo mình không biết Thầy, không phải là người đã ở với Thầy, đã theo Thầy như một môn đệ và như một người bạn. Đơn giản là ông sợ bị liên lụy, sợ chịu chung số phận của Thầy. Xưa nay chẳng ai tuyên xưng Đức Giêsu mà không phải trả giá. Tuyên xưng bằng cách không bước qua thập giá như hồi xưa, hay tuyên xưng bằng cách bước qua những mời mọc thời nay, Coi nhẹ những gì thế gian mê đắm và ưa chuộng,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.
Chúng ta có thể tránh được máy kiểm tra nói dối của người đời, nhưng không tránh được cái nhìn xuyên thấu tâm can của Thiên Chúa. “Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà” (c. 3). Như thế điều tưởng như không thể lọt ra ngoài, điều kín như bưng, vẫn có thể bị đưa ra ánh sáng,
Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe, nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận. Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ, những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11). Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế, những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7), và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Xin trân trọng gửi đến Quý độc giả các bài đọc Lời Chúa Chúa nhật XXIX Thường niên - năm A.
Đức Giêsu ba lần nói “Khốn cho” đối với người Pharisêu (cc. 42-44). Khốn cho thứ nhất vì họ quá chú tâm giữ những điều lặt vặt, phụ thuộc, mà xao lãng cái chính yếu và quan trọng. Họ nộp thuế 10% về những thứ rau cỏ ngoài vườn để tỏ lòng đạo đức. Tiền thuế này được dùng để giúp đỡ các tư tế và các thầy Lêvi. Nhưng tiếc là họ không để ý đến sự công bình đối với tha nhân.
“Hãy trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da, hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã quyết định một ranh giới giữa Thiên Chúa và thế gian. Người tín hữu sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian (x. Ga 15,19). Như đoá sen giữa bùn lầy, vẫn vươn cao và toả hương thơm ngát, Kitô hữu hoà mình vào cuộc sống trần thế đầy bon chen và gian dối, nhưng không để mình bị lây nhiễm những thói xấu của cuộc đời trần tục. Nói như thế không có nghĩa là coi thường những giá trị trần thế hoặc guồng máy lãnh đạo xã hội. Bởi lẽ tham gia xây dựng một xã hội nhân ái và công bằng chính là điều kiện để trở nên Kitô hữu đích thực.
Một ông Pharisêu mời Đức Giêsu đến dùng bữa. Cử chỉ đó cho thấy thiện cảm của ông đối với Ngài. Đức Giêsu đã đáp lại lời mời, đã đến nhà ông và liền ngồi vào bàn tiệc. Ông chủ nhà bị sốc vì thấy khách không rửa tay trước khi ăn. Đối với ông đây là một thói quen quan trọng, không thể thiếu. Thế là Đức Giêsu đã giảng cho ông một bài hẳn hoi.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn phô trương. Ngài cũng không dùng dấu lạ để mua lòng tin của dân chúng. Dấu lạ của Đức Giêsu không qui về vinh quang hay lợi lộc cho Ngài, nhưng nhắm đến việc khai mở Nước Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại. Nhiều lần Ngài thắng được cám dỗ làm dấu lạ. Ngài đã không biến đá thành bánh để ăn cho no bụng hay nhảy xuống từ nóc Đền thờ để dân chúng kinh ngạc tung hô.